Xin đọc phần 1: http://www.conggiaovietnam.net/index.php?m=module2&v=detailarticle&id=84&ia=8184
phần 2: http://www.conggiaovietnam.net/index.php?m=module2&v=detailarticle&id=84&ia=8426
NGUYỄN HỌC TẬP
III - Đức Thánh Cha Benedictus XVI.
Đức Thánh Cha Benedictus XVI được tuyển chọn ngày 19.04.2005, đã xác nhận ý chí tiếp tục thực hiện, với lòng can đảm định hướng đi đã được Công Đồng Vatican II phát họa.
Đức Gioan Phaolồ II trong Di Chúc Thiêng Liêng của ngài đã nói rằng ngài để lại cho đấng kế vị mình,
- cùng chung với tay lái con thuyền Thánh Phêrô
- cả kim địa bàn mà ngài đã dùng trong triều đại giáo hoàng lâu dài của ngài: đó là thực hiện Công Đồng Vatican II ( ĐTC Gioan Phaolồ II, Testamento, in Acta Apostolicae sedis Commentarium Officiale, vol. XCVII. Supplementum, 17.04. 2005, Typis Vaticanis, 2005, p. 479).
Đức Benedictus đón nhận tức khắc cả hai di sản đó: " Đúng vậy ", ngài đã thốt lên ngay ngày hôm sau khi vừa được tuyển chọn:
- " Đức Gioan Phaolồ II đã chỉ cho thấy Công Đồng Vatican II là " kim địa bàn ", nhờ đó có thể định hướng đuợc trong đại dương rộng lớn của ngàn năm thứ ba. Cả trong Lời Di Chúc Thiêng Liêng của ngài, ngài đã ghi nhận: " Tôi xác tín rằng còn cả thời gian lâu dài các thế hệ mới vẫn còn múc lấy được kho tàng giàu có mà Công Đồng của thế kỷ XX nầy đã rộng tay ban phát cho ".
Tôi cũng vậy, trong khi bắt đầu lãnh lấy việc phục vụ của chính Đấng Kế Vị Thánh Phêrô, tôi muốn xác nhận mạnh mẽ ý chí quyết định tiếp tục thực hiện những gì Công Đồng Vatican II đã chỉ dạy cho, theo gương các Đấng Tiền Nhiệm tôi và trung thành với truyền thống hai ngàn năm của Giáo Hội. Chính năm nay là dịp kỷ niệm giáp 40 năm biến cố kết thúc Thượng Hội Công Đồng ( ngày 8 tháng 12 năm 1965). Năm thánh có qua đi, các Tài Liệu Công Đồng vẫn không mất đi tinh cách hiện đại, trái lại các lời dạy bảo của Công Đồng càng tỏ ra một cách đặc biệt liên hệ đến các nhu cầu của Giáo Hội và của xã hội toàn cầu hoá hiện tại " ( L'Osservatore romano, 21.04.2006).
Đức Thánh Cha Benedictus XVI tỏ ra rất quan tâm đến di sản được Công Đồng Vatican II để lại, nhứt là quan tâm đến các ý nghĩa hàm chứa cần đuợc giải thích và áp dụng.
Bởi đó trong Thông Điệp Caritas in Veritate ( 2009 ) ngài xác nhận mình hoàn toàn hiệp nhứt với Công Đồng về đường hướng, cũng như cần được đem ra thực hiện.
Dầu vậy cũng không thiếu những ý kiến chỉ trích Đức Thánh Cha Benedictus XVI là không đánh giá đúng mức tầm quan trọng các giá trị di san của Công Đồng, còn hơn nữa ngài còn muốn quay lại quá khứ đối với một vài điểm thiết yếu, khởi đầu là việc liên quan đến vấn đề canh tân phụng vụ, mà ai cũng biết là biểu tượng canh tân của Công Đồng.
Để trả lời cho những lời tố cáo đó, điều tốt nhứt là đặc tâm chú ý vào bài diễn văn của Đức Thánh Cha về vấn đề giải thích Công Đồng. Ngài đã dành một đoạn dài và khúc chiết trong bài diễn văn vừa kể ngày 22 tháng 12 năm 2005, ngay từ lúc khởi đầu triều đại giáo hoàng của ngài, và gần đây nhứt ngài đã lập lại chủ đề trong Thông Điệp Caritas in veritate.
Đức Thánh Cha Benedictus XVI có thái độ nào trước Công Đồng?
Đức Thánh Cha phủ nhận rõ ràng lối giải thích tách khúc, " gián đoạn " ( discontinuità ) đối với ý nghĩa những gì Công Đồng muốn nói với chúng ta ( Discorso alla Curia Romana per il Natale, 22.12.2005, in " Aggiornamenti Sociali ", 2, 2006, p. 159-169).
Dĩ nhiên, ngài xác nhận, không thể chối bỏ được tình trạng đứt khúc, gián đoạn theo phương thức, trong đó Công Đồng nhận thức mối tương giao giữa đức tin và các khoa học hiện đại, giữa Giáo Hội và tổ chức Quốc Gia hiện đại, giữa đức tin Ki Tô giáo và các tôn giáo khác trên thế giới.
Tuy nhiên, ngài nhấn mạnh, các nguyên tắc Phúc Âm căn bản vẫn còn là những nguyên tắc với giá trị nguyên vẹn, chỉ đổi khác là cách áp dụng các nguyên tắc đó vào các hoàn cảnh mới.
Như vậy, Đức Thánh Cha Benedictus XVI kết luận, chìa khóa để mở ra hiểu được ý nghĩa là mà Công Đồng muốn để lại cho chúng ta là " giải thích ý nghĩa canh tân " ( l'ermeneutica della riforma ", để giúp chúng ta đón nhận được những gì mới mẻ trong nhãn quang nối tiếp.
Mặc dầu vậy, Đức thánh Cha cũng ý thức rằng
- ngoài ra những định hướng cao cả có liên quan đến việc canh tân Giáo Hội,
-vẫn còn có những vấn đề hệ trọng mà Công Đồng Vatican II không đề cập đến
- và những vấn đề khác được phát sinh ra cả thời sau Công Đồng.
Điều đó giải thích được tại sao Đức Thánh Cha muốn trở lại chủ đề trong chương 12 Thông Điệp Caritas in veritate. Dĩ nhiên chủ đề đang đề cập chỉ là một khoản trong ngoặc của Thông Điệp nói về sự phát triển, đề tài chính mà Thông Điệp nhằm đến. Đó là lý do khiến cho chúng ta nên lưu ý.
Chính vì lý do đó, mà Đức Thánh Cha muốn nhân dịp Thông Điệp được viết ra để lưu ý một lần nữa về vấn đề giải thích chính đáng chủ tâm của Công Đồng, mà ngài rất lấy làm quan tâm.
Khởi điểm từ đó Thông Điệp bắt đầu khai triển là việc đặc tâm lưu ý đến
- " mối liên hệ giữa Thông Điệp Populorum progressio và Công Đồng Vatican II không có gì cho thấy có đứt khúc, gián đoạn giữa Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội của Đức Phaolồ VI và Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội của các Đấng tiền nhiệm ngài, bởi vì chính Công Đồng Vatican II là một biến cố tìm hiểu sâu rộng hơn những lời huấn dạy đó trong đòi sống tiếp nối của Giáo Hội " ( Caritas in veritate, id.).
Nói cách khác, Đức Thánh Cha Benedictus XVI áp dụng cho sự phát triển Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội cũng cùng một tư tưởng như ý nghĩa về giải thích Công Đồng. Ngài nói:
- " Không có hai loại Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội, một trước Công Đồng và một sau Công Đồng. Các Huấn Dụ có khác nhau, nhưng chỉ có một lời huấn dạy duy nhứt, mạch lạc liên tục nhau, nhưng đồng thời vẫn luôn mới mẻ ". Khám phá ra đặc tính cá biệt của một Huấn Dụ hay một Thông Điệp, lời huấn dạy của một một Đức Giáo Hoàng hay của một vị Giáo Hoàng khác, đó là điều chính đáng, nhưng không bao giờ được mất đi nhãn quang xác đáng của cả nền giáo huấn. Mạch lạc không có nghĩa là đóng khung khép kín trong một hệ thống, cho bằng trung thành năng động với một ánh sáng đã đón nhận được. Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội soi sáng bằng một ánh sáng không thay đổi các vấn đề mới mẻ có thể xảy đến " ( Caritas in veritate, id.).
Tuy vậy, chúng ta có thể chính đáng nói rằng " đó là một khúc quanh " hay " một một bước nhảy vọt về phía trước ", nói như Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã nói trong diễn văn khai mạc Công Đồng.
Con đường vẫn là con đường đó và tiếp tục không gián đoạn, nhưng trên con đường có thể có và thực sự có " những khúc quanh đổi chiều " hay " những bước nhảy vọt về phía trước " , tạo ra những cuộc đổi hướng hay tiếp tục tiến nhanh hơn về phía trước.
Điều đó cũng tương tợ như là những gì xảy ra trong cuộc sống con người: con người trưởng thành chắc chắn cũng là chính là chủ thể rập khuôn như lúc còn bé, nhưng biết bao nhiều lần thay chiều đổi hướng và " nhảy vọt về phía trước". trong cuộc sống.
Điều vừa kể chúng ta cũng có thể nói về Công Đồng Vatican II. " Đóng kín lại, đoạn tuyệt ", không; nhưng " khúc quanh, chuyển hướng ", có !
Nếu không làm sao chúng ta có thể nói được việc chuyển hóa từ định nghĩa của Công Đồng Tridentino, " Giáo Hội là một xã hội hoàn hảo " sang định nghĩa của Công Đồng Vatican, " Giáo Hội là cộng đồng dân Chúa ", cùng với tất cả các hệ tại giáo hội tính và mục vụ hàm chứa trong đó, mà chúng ta đã thấy?
Làm sao có thể chối bỏ được " khúc quanh chuyển hướng " mà Công Đồng Vatican II đã xác định trong cách hiểu các mối tương quan
- giữa Quốc Gia dân sự và Giáo Hội,
- giữa đức tin và chính trị,
- trải qua từ quan niệm " Ki Tô giáo tính " ( cristianità ) trước Công Đồng đến việc chấp nhận đặc tính trần thế, ở giữa trần thế để thánh hoá trần thế của Giáo Hội.
Làm sao chúng ta có thể chối bỏ được " khúc quanh " mà Giáo Hội đã thực hiện trong việc đối thoại Giáo Hội - trần thế, trong việc đối thoại hiệp nhứt Ki Tô giáo và đối thoại liên tôn?
Trong một vài trường hợp, những sự khác biệt giữa giữa thời kỳ tiền Công Đồng và hậu Công Đồng đã thể hiện minh nhiên đến nỗi chúng ta có thể nói đó là những cuộc chuyển hướng hình chữ U, với ý nghĩa là một cuộc chuyển hướng tận gốc rễ.
Đức Thánh Cha Benedictus XVI không khước từ những điều đó, khi ngài không chấp nhận việc " đứt khúc, gián đoạn " giữa Giáo Hội thời kỳ tiền Công Đồng và thời kỳ Công Đồng, cũng hậu Công Đồng Vatican II.
Như vậy con đường của cuộc hải trình đã được Công Đồng Vatican II vẻ thành đồ án, với những đặc tính mới để tiếp tục công cuộc hành trình, nhưng cuộc hải trình của Giáo Hội vẫn là cuộc hành trình ra khơi, mặc dầu những cuộc bảo táp sóng gió cũng không thiếu, nhưng Giáo Hội là Giáo Hội của Chúa Giêsu, luôn luôn có Chúa Giêsu ở nơi mình:
- " Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên Tảng Đá nầy, thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy " ( Mt 16, 18).
- " Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế " ( Mt 28, 20).