Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng
Francis Assisi Lê Đình Bảng
Tủ Sách CGVN

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

ThánhVịnhĐápCa (NgọcCẩn)

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
Bài Viết Của Francis Assisi Lê Đình Bảng

BỒI HỒI KHÚC BI CA REQUIEM CHIÊU NIỆM CẦU HỒN: VĂN TẾ CÁC ĐẲNG
Văn tế là một thể văn biền ngẫu, thoát ly từ thể phú Đường luật, với nội dung kể công đức, tính hạnh của người được tế và bày tỏ lòng kính trọng, tiếc thương. Có thể viết văn tế bằng nhiều dạng khác nhau: Tán, Từ khúc, Thi ca hoặc văn xuôi (điếu văn); tùy hoàn cảnh và đối tượng. Tế sống, tế chết, tế thần thánh. Tuy nhiên dựa vào thực tế văn học Việt Nam, phổ biến nhất vẫn là các bài văn tế soạn theo qui luật Đường phú và văn tế viết bằng thể thơ song thất lục bát. So với thi phú truyện Nôm, ca ngâm thì số lượng các bài văn tế không nhiều. Song, nhờ chất lượng nội dung và giá trị về nghệ thuật hùng biện, mảng văn tế đã trở thành một trong những bộ phận hữu cơ khá đặc thù của dòng văn học Việt Nam cuối thế kỷ 18 và 19, kể cả trong sinh hoạt lễ tang, tưởng niệm, truy điệu, giỗ chạp thường nhật. Xin kể ra đây một vài kiệt tác điển hình: Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh (Nguyễn Du); Văn Tế Vua Quang Trung (Lê Ngọc Hân); Văn Tế Trận Vong Tướng Sĩ (Nguyễn Văn Thành); Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần GiuộcVăn Tế Sĩ Dân Lục Tỉnh (Nguyễn Đình Chiểu); Văn Tế Võ Tánh Và Ngô Tùng Châu (Đặng Đức Siêu); Văn Tế Sống Vợ (Tú Xương) và Văn Tế Phan Chu Trinh (Phan Bội Châu).

Thơ gửi người em quê lũ
Chuyện tôi kể, từ lá rau, hạt cải
Chúa cho mọc lên, xúm xít cánh đồng
Có mùi nhà quê, chợ búa, bãi sông
Kẻ tưới, người gieo, bốn mùa tươi tốt

NHỮNG MÙA TRĂNG TUỔI MỌN
Vào dịp Tết Trung Thu hằng năm, chúng tôi có cả một vòm trời lấp lánh những vì sao, là những trò chơi dân gian nhà quê, là thế giới rộn ràng những cung bậc và ngôn ngữ ...File kèm Attach file

TRONG TAY NGƯỜI THỢ GỐM
Nước trời, như mẻ lưới dăng ngoài biển
Tôm cá đầy, đợi người ta kéo lên
Thứ tươi ngon, chọn vào giỏ, để riêng
Còn lại thì liệng ra ngoài, vứt bỏ

LẠI…THAO THỨC VỚI NGƯỜI KHÔNG NGỦ
Chẳng ai biết sách vở của Cụ có bao nhiêu, nhiều hay ít, bao giờ, in ấn, phát hành thế nào. Lâu lắc và mịt mù quá. Chỉ rõ, hằng tuần, cứ mở tờ tuần báo CGvDT ra, đọc bài Lời Chúa của Cụ ở cái trang góc cố hữu, quen thuộc ấy.  Người ta ví Cụ như một thầy khổ tu ẩn mình trên tầng tháp cổ.  Cụ nghĩ và viết ra, là Lời Chúa, chứ còn gì.  Nhớ mãi, ngày ra mắt bộ Thao Thức, 4, 5 quyển. Mấy nghìn trang dầy cộm, là vào tháng 2. 2007 khá đình đám. Bản thân Cụ chẳng muốn, nhưng độc giả bắt Cụ phải chiều lòng họ. Địa điểm tổ chức không ở Sài gòn, không phải một nơi đô hội dập dìu. Mà là toà Giám mục, thủ phủ của giáo  phận Long Xuyên.

THÁNH GIÁ, LÀM SAO CON VÁC NỔI
Tuyết trời, mưa xuống, không về nữa
Thấm đẫm vào tầng sâu, tốt tươi
Để đất ra hoa, chồi lộc mới
Và mùa màng hớn hở, sinh sôi

LỬA MẾN: ngọn lửa nung nấu lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu.
Trong kho tàng ngôn ngữ riêng của nhà đạo mình, vẫn có đấy, một số từ ngữ rất đặc thù, chỉ có người trong nhà mới hiểu một cách trọn vẹn. Chẳng hạn: “đi đàng nhân đức, của nuôi phần rỗi, bõ ngãi trong nhà, của ăn đàng, làm chứng dối, bằng lòng chịu sự khó cho nên, nhịn nhục bằng lòng, vâng lời tối mặt, nhân đức khó khăn, khốn nạn, giữ mình sạch sẽ, mê dâm dục, viếng kẻ liệt lào, chối Chúa, mở dậy kẻ mê muội, chuộc kẻ làm tôi, ăn năn tội cách trọn, ăn mày các phép…”. Nhiều không sao kể hết. Đa phần, chúng nằm trong kinh sách đã có lịch sử mấy trăm năm, cụ thể là ngay từ khi đạo Chúa mới du nhập thế kỷ XVI, XVII. Nhưng trải qua va chạm, chung đụng với thế giới ngôn ngữ giao tiếp đời thường, với văn học nghệ thuật, đã có một gặp gỡ, trao đổi chung, bão hoà.

ĐỜI CON QUA NHƯ MÂY BAY
Một hôm,  giữa trời đất mênh mang của La Vang. Tôi đã nghe những lời hát ấy vang lên. Giọng cao vút mà thanh khiết của một nữ tu hát solo. Tôi cứ tưởng, một ca khúc nào đó, của Tây phương. Nó lạ lắm. Trong ngần. Thánh thiêng. Không phải từ loài người. Mà từ một nơi chốn nào, rất xa, rất lạ. Từ một trời cao thẳm, không gợn mây. Từ một cõi khác.

ĐẾN HẸN LẠI VỀ - DÂNG HOA ĐỨC MẸ

Một năm, hai tháng Đức Bà

Một là hoa phượng,hai là Mân Côi

NHỮNG NGƯỜI BẮC KỲ NGÀY XƯA nay không còn nữa

Tôi đã có dân BẮC KỲ như thế trước 1950

Tôi đã viết rất nhiều về Bắc Kỳ, chửi có, khen có, trách có và vừa đấm vừa xoa cũng có. 

Nhưng khác với những lần trước, đây sẽ là một bài rất nhẹ nhàng và thơ mộng. Tôi biết, mới đọc tới đây thì bạn nghĩ tôi sẽ châm biếm cái gì đó về Bắc Kỳ hay chửi xéo gì đó. Nhưng tôi cam đoan, tôi không hề. Tôi muốn các bạn nghe về dân Bắc Kỳ ngày xưa.

Sự kỳ diệu của ngôn ngữ thi ca - Mời bạn cùng đọc BÀI NHÃ CA THÁNG GIÊNG

(Đọc bài thơ Bài Nhã ca tháng Giêng của Francis asisi Lê Đình Bảng)

Bùi Công Thuấn

***

Mời bạn cùng đọc

BÀI NHÃ CA THÁNG GIÊNG

Trường ca TỰ TÌNH KHÚC
Con vào nhà Đức Chúa Trời
Nhớ, quên. Còn, mất. Đã rơi rụng nhiều
Xét mình, còn chẳng bao nhiêu
Để làm lưng vốn mang theo, sống đời

CHÚA NHẬT LỄ LÁ - NÉM ĐÁ - PHỤC SINH
Từ Chúa Nhật lễ Lá đến Chúa Nhật Phục Sinh - thời gian tuy vắn vỏi chỉ diễn ra trong 7 ngày – nhưng lại được coi như đỉnh điểm của Phụng vụ, vì bước vào “tưởng niệm cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu” được gọi là Tuần Thánh. Chúa Nhật Lễ Lá ở xứ đạo làng quê tôi thiêng liêng, đông vui, sầm uất lắm. Người người, nhà nhà, hàng xứ, hàng tổng cơm nắm cơm gói, lặn ngòi ngoi nước, bảo nhau về dự lễ. Có cả một “Festival-ngày hội lá dừa” rất đặc trưng, đáng ghi vào sử sách. Tôi nghĩ, rừng cây ôliu của Do Thái chẳng thấm vào đâu, làm sao sánh được với cây dừa bạt ngàn của Việt Nam tôi? Cây dừa, lá dừa, hoa dừa, quả dừa, nước dừa, cùi dừa, dầu dừa, mứt dừa, kẹo dừa và cả gáo dừa, xơ dừa, xác dừa đã đi vào đời sống thủ công, mỹ nghệ, vào lễ nghi cúng kiếng tế tự và cả trong văn hóa ẩm thực của người Việt Nam. Hóa ra, cái sáng kiến rất chân chất nhà nông mà độc đáo xửa xưa của giáo sĩ Đắc Lộ đã chuyển tải được một nội dung hội nhập văn hóa . Nó vừa thuận ý trời (Phụng vụ), lại vừa đẹp lòng người (thổ ngơi, kinh tế, thời vụ).

Trường ca NẾP NHÀ NAZARETH
Hãy đến cùng Giuse
Làng quê Nazareth
Những chiều Đông giá rét
Đêm bão tuyết Bethlem

Đọc thơ tình yêu Lê Đình Bảng - Bùi Công Thuấn

Mời bạn đọc bài thơ

CHUYỆN HOA XOAN MÙA THƯƠNG KHÓ                

Francis Assisi Lê Đình Bảng.

KINH CẦU LỄ TRO MÙA CHAY
Có những lúc, đói lả người, run rẩy
Thèm gié lúa non, bứt trộm ven đường
Vài hạt thôi, cho miệng đỡ nhạt hơn
Chuyện con kiến, quá tầm thường, vụn vặt

HIỆN TƯỢNG LỤC BÁT TRONG THI CA VIỆT NAM
Các nhà nghiên cứu về Việt Nam học, về văn hóa Việt Nam đã có một tiếng nói chung khi đưa ra nhận định khá lý thú này: “Việt Nam là đất nước của thi ca”. Có nghĩa, bẩm sinh người Việt mình đã là thi sĩ (Natus poetà). Một nhận định khác có vẻ căn cơ hơn: “Văn hóa gốc nông nghiệp trọng âm, trọng tình cảm, tất yếu có khuynh hướng thiên về thơ. Văn hóa gốc du mục trọng dương, trọng lý trí, tất yếu dẫn đến khuynh hướng thiên về văn xuôi[1]. Thống kê trên hai tập Từ Điển Văn Học[2] cho thấy, trong 198 mục từ tác phẩm văn học phương Tây thì có 43 thơ và 115 văn xuôi (tỷ lệ văn xuôi 78,3%). Còn trong 95 mục từ tác phẩm văn học Việt Nam thì đã có tới 69 thơ và 26 văn xuôi (tỷ lệ thơ 72,6%). Nói một cách khác, thi ca đã bao trùm, phủ bóng lên dòng văn học Việt Namtừ thể loại dân gian truyền khẩu cho đến lịch triều bác học thành văn. Đại để là các trường hợp: Trê Cóc, Trinh Thử, Nhị Độ Mai, Bần Nữ Thán, Nữ Tú Tài, Bích Câu Kỳ Ngộ, Ngọa Long Cương Vãn, Tư Dung Vãn, Tự Tình Khúc, Ai Tư Vãn, Hoa Tiên Truyện, Mai Đình Mộng Ký, Chinh Phụ Ngâm, Cung Oán Ngâm, Quan Âm Thị Kính, Kim Thạch Kỳ Duyên, Sơ Kính Tân Trang, Đoạn Trường Tân Thanh, Lục Vân Tiên

TẢN MẠN CHUYỆN RỒNG… RẮN LÊN MÂY
Trong thế giới muôn hình muôn vẻ của “giống má”, có lẽ chỉ có con Rồng là lạ hoắc, chẳng rõ ngọn ngành nó ra làm sao. Khi hư khi thực, lúc ẩn lúc hiện, vừa dữ tợn, vừa hiền khô. Chẳng hiểu Rồng xuất hiện trên trái đất này từ đời thuở nào và đến nay có còn rơi rớt chút gì về tông tích không? Chỉ biết một cách rất ư hàm thụ rằng nó thuộc diện biểu động vật V.I.P-… kể cả lớp hậu duệ bảy mươi bảy đời của nó là “Khủng long” tuyệt chủng từ khuya - những con vật mang hình thù, diện mạo cổ quái, đến nỗi chỉ nghe nói thì người ta đã khóc thét lên. Cũng may, tàn dư hậu tích của chúng chỉ còn là những bộ xương cồng kềnh vô hồn được trưng bày trong các phòng thí nghiệm động vật hoặc giả được máy móc hóa để dàn dựng mua vui cho đám trẻ con hiếu kỳ trong thể loại phim hoạt hình. Đến như sách thánh Khải Huyền mà còn phải đặc tả: “Đó lá một con Rồng lớn, toàn thân đỏ như lửa, có bảy đầu và mười sừng, trên bảy đầu đều có vương miện. Đuôi nó quét hết một phần ba tinh tú trên trời mà quăng xuống đất. Rồi con Rồng đứng chực sẵn trước mặt người phụ nữ sắp sinh con, để khi bà hạ sinh xong là nó nuốt chửng ngay đứa con của bà” (KH 12,1). 

BÀI NHÃ CA THÁNG GIÊNG

Đêm nay, nhớ chong đèn, chờ nhau, nhé
Đốt trầm lên, thức trắng, hết canh ba
Bởi đầy trời, rộn rã tiếng hoan ca
Và nhật nguyệt kết đôi vầng sáng rỡ

TỪ SILENT NIGHT HOLY NIGHT … ĐẾN ĐÊM THÁNH VÔ CÙNG.
Hằng năm, cứ vào độ này, cả đất trời như nhuốm chút gì ủ dột, se se lạnh, rồi gia giá, rét run. Nhìn lá cây đã vàng úa, chanh mơ từ bao giờ; có nơi đã sớm ngả sang màu đỏ điều, vang chát, huyết dụ. Đẹp rực rỡ mà sầu muộn, nói theo ngôn ngữ phù thuỷ của Văn Cao là “buồn tàn Thu”. Trông thấp thoáng tranh sơn dầu Hoa Diên Vỹ của danh hoạ Van Gogh và Phái phố, Hà Nội xưa xa. Chẳng hiểu sao, lòng tôi - trong khoảnh khắc say hương say khói ấy, cứ dâng lên bâng khuâng nỗi nhớ cái khăn len quàng cổ còn thơm bàn tay con gái ai đan tặng hôm nào ngồi với nhau bên lò sưởi, ở một phố huyện ngoại ô miền núi. Thèm đến bồi hồi được sống lại cảm giác long hong, để quên hai tay trong túi quần, lững thững đi xuống những con dốc sương mù bay bay. Rõ ràng có một mùa đông hồi trai trẻ, đương yêu rất lãng mạn. Vâng, sự thật là có những không gian Giáng Sinh: nhỏ bé thôi, như góc phố toả lên mùi cà phê còn hun khói. Mà cũng có nơi chốn Giáng Sinh rộng lớn hơn, như thị xã Phan Rang mịt mù gió cát, ở phía đầu cầu Đạo Long; như tỉnh lỵ Kontum, Ban Mê bồng bềnh và Đà Lạt trăng mờ… Không gian vốn là bến đỗ cho một câu chuyện của hai người diễn ra, của em và của tôi, viết nên một truyện tình. Rồi chẳng ai hẹn hò, một hôm về ngang qua, dừng bước, nhung nhớ vẩn vơ. Nhớ và yêu một chỗ ngồi, một cái ghế mây, một ô cửa sổ mở ra cánh đồng bắp trổ cờ, váng vất lũ chuồn chuồn ngô chấp chới. Đập cổ kính ra, tìm lấy bóng. Xếp tàn y lại để dành hương.(1) Không lẫn vào đâu được. Tôi nhớ rõ mồn một. Thơ, nhạc, cây guitar thùng, người yêu và Giáng Sinh, như một chuỗi liên kết. Một thời để nhớ, để yêu. Tất cả những dây tơ, bến bờ đầu mối ấy liền lạc chặt chẽ với nhau, không thể tách rời. Cái nọ xê dịch, gợi mở và đẩy đưa, lôi cuốn cái kia, dùng dằng như một dây chuyền cung ứng, hệt như một con tầu kéo theo nhiều toa đang lao về ga cuối, bát ngát, ràng buộc. Đừng khăn chia lìa gối. Thả đỉa ba ba, chớ bắt đàn bà, phải tội đàn ông.(2) Trẻ em, con cháu chúng ta ở làng quê xưa, sao vụng dại mà dễ thương đến thế?

[1] 1 2 3 [1/3]

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!