Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến Hùng
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  Chứng Nhân Chúa Kitô
THỨ THA – HOÀ GIẢI

 

Jorathe Nắng Tím

Đời ai cũng có những biến cố : có biến cố làm  chao đảo, « xất bất xang bang », có biến cố như « bài học nhớ đời », có biến cố dậy « biết thế nào là lễ độ », có biến cố cho đời lên hương, có biến cố làm đời xuống dốc...Nhiều thể loại biến cố, nhiều tác dụng của biến cố, nhiều phản ứng trước biến cố,  nhiều mức độ đón nhận biến cố và nhiều thay đổi lợi hại vì biến cố.

Với các tông đồ và giáo đoàn Kitô hữu đầu tiên, cuộc tử nạn và sống lại của Đức Kitô đã là một biến cố qúa lớn quyết định vận mệnh của mỗi người và lẽ sống, lý tưởng của cộng đoàn. Những ngày sau biến cố sống lại, các tông đồ và cộng đoàn tín hữu đầu tiên đã ngập tràn niềm vui, nhất tâm, hiệp nhất (Cv 5,12), hăng say rao giảng và làm chứng  Đức Kitô, Thiên Chúa đã chết và sống lại (Cv 2, 22-24 ). Các vị làm phép rửa tha tội, ban ơn Thánh Thần (Cv 2,38), các vị nhân danh Đức Kitô chịu đóng đinh làm phép lạ đuổi qủy, trừ tà, chữa bệnh cho nhiều người (Cv 1,6-7), các vị ra khỏi ranh giới Israel và đến với dân ngoại (Cv 13,44-46). Nhưng cũng như Đức Kitô, các vị bị cô lập, truy lùng, bắt bớ, đánh đòn, ném đá chết  bởi các kỳ mục và kinh sư. Têphanô, chứng nhân đầu tiên đã lấy máu và mạng sống làm chứng Đức Kitô và cuộc tử đạo của ngài đã được ghi lại chi tiết trong Công vụ tông đồ (Cv 7,51-60).

Nhưng đâu là cốt lõi của biến cố đã thay đổi toàn bộ, nhanh chóng suy nghĩ, chọn lựa và nếp sống của các tông đồ ? Đâu là điểm nhấn đã ảnh hường mãnh liệt trên các ông ? Điều gì nơi Thánh giá của Đức Kitô đã làm chấn động  nội tâm các ông ? Từ những người háo danh trở thành người hiền hoà, nhẫn nhục ; từ ganh tị, tranh chấp biến đổi thành khiêm tốn, yêu thương ; từ nếp sống nhỏ nhen, ích kỷ trở nên vị tha, quên mình, các ông đã thực sự được đổi mới.

Chắc chắn các ông đã nhận được nhiều từ biến cố tử nạn và sống lại của Thầy :  nhận ra sức nặng của hận thù đè trên đời người, sức nặng của quyền lực trấn áp người cô thân, yếu đuối, sức nặng của « mồm loa mép giải » vu cáo người vô tội, sức nặng của nghi ngờ, đố kỵ làm đui chột tâm hồn, lu mờ lương tâm, sức nặng của tham lam vật chất, danh vọng  cấm vận đường tình của trái tim, hủy hoại tình hiệp nhất, huynh đệ. Các ông cũng nhận ra yếu đuối của con người và của chính các ông. Nhưng điều các ông nhận ra rõ nhất, ấn tượng nhất nơi Đức Kitô chịu đóng đinh, đó là trái tim thứ tha và hoà giải của Ngài. Đây là điểm đã đánh động và biến đổi con người các ông và nhờ thái độ sẵn sàng và dễ thương, nhờ tinh thần khiêm tốn phục thiện và ngoan ngoãn, bé nhỏ trước Thánh Thần,  các ông đã học được bài học Thứ Tha và Hoà Giải nơi mầu nhiệm Thánh Giá.

1.     Các ông đã nghe Đức Mẹ, Gioan, Mađalêna  kể lại những gì Thầy đã nói, đã làm trên Thánh Giá. Là tông đồ duy nhất trong nhóm mười hai đã có mặt giờ hấp hối của Thầy, như người chứng qúy hiếm,  Gioan đã nhìn tận mắt, nghe tận tai Đức Kitô thoi thóp, mệt nhọc cầu xin ơn tha thứ. Cũng như Đức Mẹ, ông đã không bỏ sót một lời Thầy cầu nguyện cho những người đã đóng đinh Thầy, ông chứng kiến cảnh Thầy hứa Nước Trời cho người bạn tử tội,  ông đã thấy, đã nghe và làm chứng trái tim Thầy thứ tha.  

Háo hức muốn biết Thầy đã nói gì trước khi tắt thở, các tông đồ đã xúc động khi được nghe kể về lòng xót thương, tha thứ của Đức Kitô. Các ông ngạc nhiên lắm, vì ngỡ Thầy sẽ nói những chuyện khác quan trọng hơn, những chuyện liên quan đến Thầy và anh em ; đàng này, Thầy chỉ  lo thứ tha, bận tâm về chuyện tha thứ. Sứ mệnh tha thứ như chiếm trọn trái tim Thầy, ám ảnh đời Thầy, nên ở đâu, giờ nào, trong hòan cảnh nào Thầy cũng bao dung tìm dịp tha thứ. Thầy nhậy bén với thứ tha, quấn quít với  tha thứ, nên đâu có tội nhân, chỗ nào có tội lỗi là có Thầy, có lời Thầy tha thứ, có tình Thầy thứ tha, có ơn Thầy đổi mới (Lc 23,34.43) 

Chính vì nhận ra trái tim thứ tha của Thầy mà các tông đồ đã không một lời oán trách, căm thù những người đã gây ra cảnh dâu bể cho Thầy trò ; không sắp xếp,  âm mưu báo oán, trả thù các người Biệt Phái gian ngoa,  ác độc ; không một  thái độ thù nghịch đối với Hội Đồng Kỳ Mục ; không xách động, bôi nhọ, lên án chính quyền đã bất công kết án Thầy ; trái lại, các ông đã ôn hoà, lạc quan, vui vẻ và căn dặn nhau : « Hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền lành và nhẫn nại ; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng . Hãy duy trì sự hiệp nhất mà Thánh Thần mang lại bằng đời sống thuận hoà, gắn bó… Vì chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người » (Ep 4,2-6).   

Không  lời nào tình nghiã, bao dung, dễ thương hơn khi xóa bỏ hận thù, quên đối kháng, đố kỵ để gọi mọi người là anh em cùng một cha. Không những thế, các vị còn tin tưởng : Thiên Chúa hành động qua mọi người và trong mọi người. Không còn thù địch, đối phương, nhưng chỉ còn những người con cùng cha, cùng một niềm tin, hy vọng.  

Bởi đâu, động lực nào, sức mạnh nào, con người nào đã biến đổi tâm hồn các ông nên mới, qủang đại, bác ái và lạc quan, hy vọng như vậy ? Chính gương thứ tha của Đức Kitô trên Thánh Giá đã thay đổi tâm hồn các ông  và khởi đi từ tha thứ, các ông mang lấy tinh thần mới, con người mới, đời sống mới trong ơn Bình An của Đức Kitô phục sinh. Chính tình yêu tha thứ của Ngài trên Thánh Giá đã dậy các ông quên đi hận thù, đừng báo thù, thôi là địch thù, vì đó là đòi hỏi cấp bách của Tình Yêu Thánh Giá.     

Tin Mừng được viết lại bởi các tông đồ đã không kể gì ngoài tâm tình bao dung và những lời tha thứ của Đức Kitô trên Thánh Giá. Điều này đã gây xúc động mạnh và tạo một khúc quặt mới trong đời các tông đồ. Các ông bắt đầu hiểu : Thánh Giá là công cuộc thứ tha và trên Thánh Giá, Thầy đã công khai tha cho tất cả mọi người, trong đó có cả các ông ; bởi chính các ông cũng đã xử « không đẹp » với Thầy khi  phản bội, chối từ, bỏ trốn, tránh mặt …Hơn ai hết, các ông biết giá trị của ơn tha thứ, vì hơn ai hết, các ông thấy mình cần được thứ tha.  

Nhìn Đức Kitô hấp hối trong lời cầu xin ơn tha thứ, Gioan đã không thể cầm lòng. Ông ghi tạc từng lời Thầy và kể lại không thiếu một chi tiết để anh em cùng chiêm ngưỡng tình yêu vĩ đại của Thầy. Và các ông bảo nhau : phải biết thứ tha, hiền hoà, ngay thẳng và kính trọng  những người phỉ báng, vu khống mình  (1Pr 3,16). 

Trong tất cả những lần hiện ra với các môn đệ, Đức Kitô phục sinh đã không hề nhắc đến một lầm lỗi của ai, hay trách móc, kêu gọi trả thù, báo oán ai. Chỉ một lời chúc « Bình An cho chúng con » (Ga 20,19), Đức Kitô đã đem niềm vui tha thứ đến những tâm hồn hạnh phúc vì được thứ tha. Cái chết của Ngài đã đem lại bình an thực sự cho con người, vì đó là cái chết của tình yêu thứ tha ; cái chết của Thiên Chúa bao dung không chấp lỗi lầm, không ghim tội nhân, không chờ cơ hội báo oán, trả thù. Cái chết ấy có tên gọi là Tình yêu tha thứ. 

Mang lấy Thánh Giá trên mình, cho đời mình, người Kitô hữu cũng không thể làm gì khác là nhìn lên Đức Kitô đang thứ tha trên Thánh Giá. Ngoài Thiên Chúa đang thứ tha,  người ta không gặp được Thiên Chúa nào khác trên thập tự. Vì thế, khi đeo Thánh Giá trên ngực, treo Thánh Giá trong nhà, đặt Thánh Giá trên bàn làm việc, người ta có thể thất vọng vì không gặp một Thiên Chúa như mình muốn ; thất vọng vì Thiên Chúa không đáp ứng ngay những đòi hỏi rất « người » và rất « tôi » của mình  ; thất vọng vì Thiên Chúa không suy nghĩ, hành động theo « hộp điều khiển từ xa » với chương trình định sẵn, nhưng chắc chắn một điều, người ta sẽ không bao giờ thất vọng khi nhìn lên Thánh Giá để xin ơn tha thứ. 

Thực vậy,  chỉ là tội nhân, là người có tội, nhiều tội, người ta mới có nhu cầu được tha thứ, mới cần ơn thứ tha, mới thấy Thánh Giá cần treo một Thiên Chúa giầu lòng xót thương  hơn ngự  một Thiên Chúa « chí công vô tư ». Phải vấp ngã, sa đoạ, hoang đàng,  phải  buị bặm, nhem nhuốc tình đời, tội đời  mới hiểu thế nào là tình thứ tha, giá trị của nước và máu để thanh tẩy, chữa lành. 

 Người thánh thiện là người có tâm tình của người có tội trước Thánh Giá . Họ là người sống  mầu nhiệm Thánh Giá, không  sống Thánh Giá như một mầu nhiệm ở xa chỉ để chiêm ngưỡng hay như báu vật chỉ để ngắm nghiá, trầm trồ, nhưng như tâm tình chẩy trong  máu làm cho trái tim sống động, rung động, cảm động.  Đời sống người thánh thiện từ đó sẽ không ngừng mang nặng  tâm tình thứ tha của Đức Kitô, Thiên Chúa giầu lòng thương xót  để chỉ say mê tha thứ và tìm con người để thứ tha như Ngài.

 

2.     Tuy tha thứ là đòi hỏi của Đức ái, nhưng tha thứ thường được coi như công việc của trí khôn hơn là hành động cụ thể, sống động. Người ta có khuynh hướng xếp tha thứ vào phạm trù tĩnh  hơn phạm trù động,  thuộc sinh hoạt trí óc hơn việc làm của bàn tay đời thường. Vì thế mà ta vẫn thường phải nghe : « Tha mà không quên, tha nhưng để đó, tha thì tha vậy thôi ». « Tha mà không quên » là tha mà chưa thả, tha mà vẫn ghim đó, tha nhưng còn giữ tẩy, cầm trịch, nắm chắc đàng chuôi. « Tha nhưng để đó » là tha nhưng vẫn giữ ai đó làm con tin, tha nhưng còn tạm giam, kiểm soát, theo dõi, định kỳ trình diện. « Tha thì tha vậy thôi » tức chưa thôi tức tối, chưa thôi căm giận, chưa thôi nặng lòng. 

Tha thứ biến thành một tư tưởng thuần tư tưởng, ý nghĩ thuần ý nghĩ không ra được khỏi đầu để chạy xuống tim biến thành công việc của chân tay, thân thể. Vẫn biết : đầu điều khiển, quyết định, nhưng cứ giữ mãi trong đầu, chỉ ở trong đầu  thì tha thứ sẽ mãi  trừu tượng, vô hình, vô tướng để rồi biến thành một loại tha thứ vô tâm, vô cảm.  

Nhiều khi ta đã vô tình  giản lược tha thứ vào một ý niệm, một hình ảnh không hồn, không sự sống, không ăn nhậu gì đến da thịt, hoàn cảnh của con người thực, đang sống, khi thứ tha bị nhốt trong những lồng kín « trí khôn, tri thức » mà không được nhập thế vào đời, nhập thể vào chính con người đối tượng của thứ tha. Tha thứ lúc đó sẽ lơ lửng, mơ hồ và mau chóng tan như bọt xà phòng, vì tạm bợ như « Tha mà không quên », nhất thời như « Tha nhưng để đó », bất nhất như « Tha thì tha vậy thôi ». Tha thứ trong những trường hợp này đã bị biến thành một tấm biểu ngữ của lòng thương xót, tờ rơi quảng cáo cho một kế hoạch có giai đọan, phấn son trên mặt chú hề đang làm ảo thuật đánh lạc hướng khán giả. 

Không phải ngẫu nhiên, ngẫu hứng mà Đức Kitô đã nhấn mạnh việc « bỏ của lễ đã sẵn sàng ở đó mà đi về hoà giải với người anh em » (Mt 5,24), nếu tha thứ khơi khơi, kiểu tha không thả vừa kể được Ngài chấp nhận. Chắc chắn  những kiểu tha « thả nổi, tà tà, tha như không tha »  đã không thành sự trong ý muốn của Đức Kitô, nên Ngài mới đặt vấn đề « đi về hòa giải » để tha thứ trở thành tha thứ thật, tha thứ tận đáy lòng, tha thứ « tận củ tỷ, nguyên con », tha thứ như hành động quyết liệt, cấp bách của bác ái.  

Đòi hành động Hoà Giải đi kèm  tha thứ, Đức Kitô muốn tha thứ của óc phải đáp xuống cuộc đời, nhào vào  đời người, đến với con người sống động qua việc làm cụ thể, thực tế. Tha thứ lúc đó sẽ được hoà giải dẫn đến điểm hẹn gặp gỡ, cảm thông, yêu thương, chia sẻ  là hoa trái của thứ tha đích thực.  

Trên Thánh Giá, Đức Kitô đã không chỉ ậm ừ tha thứ, nhưng ngoái cổ nhìn, gắng gượng nói, lấy hết sức bình sinh cầu nguyện thành lời. Cử chỉ gắng gượng « nói với », rướn mắt ngước nhìn, gồng mình nguyện xin là hành động  gặp gỡ,  tìm đến đối tượng hoà giải.  

Tha thứ của Đức Kitô không tĩnh, nhưng động ; không chỉ là tư tưởng, ý nghĩ nhưng là việc làm, hành động ; không im lặng, lạnh lùng nhưng mở lời nồng nhiệt ; không ỡm ờ, cho qua chuyện nhưng xuất phát tận trái tim vào tận đời sống. Tha thứ của Đức Kitô trên Thánh Giá là ánh mắt hoà giải, môi miệng hoà giải, chân tay hoà giải, toàn thân con người hoà giải. Hình ảnh người cha nhân từ chạy ra đầu ngõ, mắt rưng lệ, hai tay ôm choàng lấy con, miệng líu lo mừng con trở về và hân hoan bảo gia nhân dọn tiệc là hình ảnh hoà giải của tha thứ. Ông đã tha cho cậu, nhưng không tha để đó, không tha rồi ngồi « ủ sụ một đống tối sầm », hay  tha nhưng còn giận, tha nhưng đòi con phải lý giải, tường trình, thú tội công khai, trịnh trọng xin lỗi. 

 Người cha trong Tin Mừng đã hoà giải cùng nhịp với tha thứ ; đã hành động hoà giải cùng ý nghĩ thứ tha ; đã hiện thực hoá quyết định thứ tha bằng đôi chân, vòng tay hoà giải. Ông đã thực hiện đúng nguyên tắc, tiến trình của thứ tha như Đức Kitô muốn : tha thứ và đồng thời đi hoà giải với anh em.  

Thứ tha có hoà giải như thế sẽ không còn lả thứ tha suông, thứ tha lấy lệ, thứ tha kiểu tạm tha, nhưng  thứ tha có hoà giải sẽ là thứ tha đích thực, thứ tha thánh thiện, thứ tha của tình yêu thương xót, đồng thời cũng là thứ tha khó, thứ tha rướm máu, thứ tha đòi hy sinh ; vì người ta sẽ không còn thứ tha nhau mà vẫn  nhà ai nấy ở dù là hàng xóm láng giềng kề cận ; tha thứ mà thề với lòng chẳng  bao giờ thèm ghé thăm, chung vui, chia buồn ; sẽ không còn tha thứ cho nhau mà « cạch mặt » nhau muôn kiếp để  không còn  « tay bắt mặt mừng » từ năm này sang năm khác ; sẽ không còn kiểu  tha thứ  mà được dịp là chơi xấu, châm chích, xiên xỏ ; không còn tha thứ mà hở ra là đo ván, diễu cợt, hạ uy tín nhau ; không còn tha thứ mà thề nguyền « tru di tam tộc », cấm con cháu lai vãng, đi lại ; không còn tha thứ mà chỉ mặt, gọi tên nhau là « đồ này, đồ kia, thằng kia, con nọ » khi cần ; không còn tha thứ kiểu « đầu môi chót lưỡi » mà lòng chất sẵn « một bồ dao găm » ; không còn tha thứ mà áp chế nhau  phải « tâm phục khẩu phục », khấu đầu tạ tội ; không còn tha thứ mà  chờ sẵn,  « căn me », đợi sơ hở để té tát, bôi nhọ ; không còn tha thứ mà « vui khi người gặp nạn, buồn khi người gặp may ».  

Trái lại, hoà giải sẽ là bước chân của tha thứ cho « người gặp lại người, người thương lại người, vì người đã  vì người thứ tha » ; hoà giải sẽ là bàn tay xiết chặt của thứ tha cho đôi bờ được nối lại, đôi ngả tìm về nhau, đôi giòng chẩy ra biển lớn ; hoà giải sẽ là dấu ấn, chứng nhận của giao ước thứ tha và nhờ bàn tay, đôi chân, dấu ấn Hòa Giải mà thứ tha sống thực trong tim người, có thực trong đời người, hiện thực trong cuộc đời. Hoà giải cho thứ tha chỗ đứng, chỗ ngồi trong nhà người khác. Hoà giải cho thứ tha  nẩy mầm, nở hoa trên ruộng đời người  khác. Hoà giải cho thứ tha sức mạnh lên đường với người khác. Hoà giải cho thứ tha niềm vui cảm thông, chia sẻ với người khác. Hoà giải cho thứ tha sáng kiến xây dựng đời người khác. Hoà giải cho thứ tha bình an để tin tưởng, cộng tác với người khác và  Hoà giải đem chính Chúa là tình yêu thứ tha vào trong mọi cuộc đời.  

Bài học quan trọng và căn bản các tông đồ đã học từ Thánh Giá Đức Kitô, chính là Thứ Tha - Hoà Giải. Bài học được thông suốt nằm lòng kể từ lúc Đức Kitô phục sinh hiện đến ban bình an cho các ông, bình an của thứ tha, bình an của  hoà giải khi tỏ cho các ông  thấy dấu đinh và lưỡi đòng như dấu ấn của  tình yêu. Bài học ấy được triệt để áp dụng sau đó trong  suốt đời tông đồ  khi Chúa Thánh Thần hiện xuống ban sức mạnh, để cho đến phút cuối cuộc đời dưới gông cùm, gươm đao, các ông vẫn bình an với duy nhất  một niềm vui thứ tha, hoà giải.  

Thánh Giá đã dậy các ông bài học nên thánh, nên thánh như Thiên Chúa cực thánh trong lòng xót thương thứ tha, hoà giải của Ngài. Chỉ với bài học này thôi, Giáo Hội đã bền vững và mãi mãi vững bền, vì không có gì bền vững hơn lòng thứ tha và tinh thần hoà giải trong cuộc  sống nhân gian này.                     

Jorathe Nắng Tím

Tác giả:  Jorathe Nắng Tím

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!