HÀNH HƯƠNG
Hằng năm, cứ vào dịp Tết, hàng loạt các vấn đề nhức nhối lập đi lập lại trên quê hương đất nước này, từ các vấn đề thuộc lãnh vực giao thông, vận tải, sang các vấn đề thuộc y tế, sức khoẻ, vấn đề thực phẩm, giá cả và cả những vấn đề hình sự nữa. Tết cổ truyền là một truyền thống và văn hoá tốt đẹp của người dân Việt, nhưng lâu nay nó là nguyên cớ gây quá nhiều đau khổ cho nhiều người, nhiều gia đình, dĩ nhiên cho cả xã hội nữa. Làm sao lưu giữ và phát triển thời điểm này, làm phong phú thêm cho văn hoá và truyền thống của đất nước dân tộc ? Thiết nghĩ đây là vấn đề của toàn xã hội, trong đó, những người có trách nhiệm trong lãnh vực tôn giáo cần lưu tâm và định hướng. Làm sao cho cái Tết của chúng ta giảm bớt được những tai nạn, tai nạn do giao thông, do uống rượu và do cả nghèo đói nữa ! Làm sao cho cái Tết của chúng ta là một thời điểm của bình an, hạnh phúc, vui tươi và thư giãn ? Không thể để mỗi lần Tết đến là một dịp ôn những kỷ niệm buồn, mỗi năm hàng trăm gia đình buồn, cứ vậy chồng chất, sẽ đến một lúc cả nước… buồn. Tôn giáo với tư cách là định hướng cao và sâu cho cuộc sống sẽ giữ một vai trò nào trong việc gầy tạo những giá trị tốt đẹp ? Sau Tết, vấn đề lễ hội, trong đó hành hương là một sinh hoạt thu hút rất đông người. Không thể phủ nhận nhu cầu tâm linh trong tháng đầu năm mới của đông đảo người dân Việt, con số hàng triệu lượt người đi Chùa Hương, hàng vạn lượt người đến Đền Trần ở Nam Định để khẩn cầu và xin ấn, hàng vạn lượt ng ười đi Chùa Bà ở Bình Dương, đi núi Sam Châu Đốc… và bao nhiêu Đền Chùa Miếu Mạo khác nữa. Bản thống kê mới đây trên báo chí ở Việt Nam cho biết: số lượng hàng mã đốt trong dịp Tết được ước tính là 400 tỉ đồng, một con số quá lớn góp phần làm… nghèo đất nước ! Ở miền Nam hình ảnh này đã diễn ra trong rất nhiều năm trước năm 75, miền Bắc sau những năm cải tạo đủ thứ, bài trừ đủ thứ, không một lễ hội nào được phép tổ chức nữa, tưởng là đã mất hẳn, không ngờ bây giờ lại có cơ bộc phát dữ dội. Người ta đi Đền đi Chùa nườm nượp để khấn vái cầu xin. Năm nào cũng vậy, báo chí kêu ca nhưng hình ảnh xe công bảng số xanh bảng số đỏ vẫn không giảm, không chỉ người dân, mà cả các quan chức cũng lũ lượt đi khấn đi hứa. Tranh cãi mãi cuối cùng thì đồng tiền vẫn là trên hết, chẳng còn học tập bài trừ mê tín làm gì nữa, chẳng còn duy vật hay duy linh chi cả, vì chính quan to quan nhỏ cũng hí hửng với ấn đỏ ấn xanh, có hẳn đường dây riêng dành ấn cho quan chức, mặc dân chen nhau chảy máu vỡ đầu chỉ là… húp nước cặn !
Dân cũng tin, quan cũng tin, có khi quan còn tin hơn dân. Nghe nói hàng lãnh đạo cao cấp cũng thường xuyên lên đồng lên cốt, thường xuyên xem bói xem toán, thường xuyên lo phong thủy, yểm bùa chấn trạch, điều chỉnh nhà cửa, mồ mả, bếp núc, kê lại bàn tủ ghế giường… Như thế thì duy tâm hay duy vật gì cũng đều có nhu cầu liên lạc với một thế giới nào đó khác với cái thế giới này, muốn truy tìm một sự nâng đỡ nào đó ngoài vật chất, muốn cầu xin một sức mạnh nào đó không phải từ con người, không chỉ để bảo vệ và nâng đỡ cuộc sống hiện tại, mà còn ký thác cả tương lai. Quan sát các hiện tượng nêu trên chúng ta thấy, mọi người ai cũng đều có một nhu cầu thật sự tìm đến với quyền lực trên cao, ước mong khấn vái để được phù hộ độ trì cho những nhu cầu của họ, thời điểm thích hợp không chỉ trong ba ngày Tết nhưng kéo dài cả tháng Giêng. Đứng trước hiện tượng này, các vị có trách nhiệm trong đạo Công Giáo tại Việt Nam nghĩ gì ? Được biết trong những năm vừa qua, rất đông anh chị em Tu Sĩ, và cả Linh Mục nữa đã theo học và tốt nghiệp đại học ngành Xã Hội Học, không biết đã có công trình nào nghiên cứu hiện tượng xã hội này chưa ? Nếu có, hiệu quả của công trình đi đến đâu, có được ứng dụng trong Mục Vụ chưa ? Chúng tôi muốn đặt một vài câu hỏi. Có nên mở cửa Nhà Thờ thường trực để mọi người có thể vào nghỉ ngơi tinh thần, cầu nguyện và kính viếng Thánh Thể và các Thánh, nhất là trong ba ngày Tết và cả tháng Giêng ? Có nên tổ chức các sinh hoạt để phục vụ nhu cầu tâm linh của bổn đạo trong ba ngày Tết và tháng Giêng ? Làm sao để các Nhà Thờ của chúng ta trở nên gần gũi thân quen với mọi người, sân Nhà Thờ đầy bóng cây xanh, rộn ràng tiếng chim hót, mát mẻ và thân thiện, các bạn sinh viên học sinh tìm đến ôn bài và để tâm hồn được dịu xuống thanh thản ngay giữa những bộn bề náo động của cuộc sống ?
Sở dĩ chúng tôi đặt các câu hỏi như trên, là vì, rất đông các Nhà Thờ của chúng ta cứ “cửa đóng then cài”, cửa chỉ mở vào các giờ lễ, ngoài ra thì im ắng, ba ngày Tết, Nhà Thờ trở thành… “Chùa bà Đanh”. Tết vừa qua, ngày mồng Một, tôi có dịp đến thăm một vị Linh Mục vào buổi sáng, sau giờ lễ, ngôi Nhà Thờ đóng kín cửa, tôi gọi điện thoại báo với cha sở là mình đang đứng trước cửa. Ngài không tin, khi ra mở cửa để đón tôi, ngài ngạc nhiên vì tôi lại đến thăm vào sáng mồng Một Tết, còn tôi thì cũng không ít ngạc nhiên vì sáng mồng Một Tết mà ngài lại đóng cửa Nhà Thờ và… ngủ ! Tôi đến ngài mừng quá, lôi đủ thứ trong tủ lạnh ra và bắt phải “nhậu” với ngài một chầu, “may quá cậu đến chơi, chứ không tớ không biết làm sao để ăn cho hết các thứ này !” Tôi được biết có một ngôi Nhà Thờ nọ, khi thiết kế, người thiết kế đã vẽ đồ án kiến trúc một ngôi Nhà Thờ không có… tường, không có… cửa ! Người thiết kế muốn gởi gắm ý tưởng: Giáo Hội của thế kỷ 21 là Giáo Hội không có rào chắn, không có tường che, là Giáo Hội của mọi người, mở toang ra cho tất cả, chẳng trừ ai. Vị Linh Mục chánh xứ đã phải rất vất vả để bảo vệ ý tưởng này, hầu hết mọi người đều không đồng ý ! Trở lại vấn đề được đặt ra. Đứng trước hiện tượng xã hội bộc lộ nhu cầu tâm linh vào những ngày Tết và cả tháng Giêng, trách nhiệm của chúng ta sẽ phải làm gì để đáp ứng một nhu cầu có thật, hữu lý và đáng trân trọng. Dấu chỉ thời đại đã có, làm sao đọc ra được và thi hành ý Chúa ? Lm. VĨNH SANG, DCCT, 14.2.2012 (Ephata 497)
Tác giả:
Lm. Vĩnh Sang, DCCT
|