Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến Hùng
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  GH. Đồng Trách Nhiệm
GIÁ TRỊ VIỆC LÀM CON NGƯỜI TRONG HUẤN DỤ XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI (3)

NGUYỄN HỌC TẬP

 

Việc làm như là thống trị trên vạn vật.

   - " Ta hãy làm ra con ngươi theo hình ảnh Ta..., để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú , tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất... ( Gen 1, 26).

Ý nghĩa của câu Thánh Kinh vừa trích dẫn cho thấy địa vị trổi thượng và thống trị của con người trên các tạo vật được Chúa dựng nên.

Nhưng thống trị, theo HDXHGH không có nghĩa là con người áp đặt lên tạo vật những gì không thuộc về bản tính của chúng, hay nói cách khác là đàn áp vũ phu lên tạo vật. Các biến cố ô nhiểm môi sinh, ô nhiểm không khí do cách " áp đặt " vô ý thức của con người lên tạo vật đang diễn ra trước mắt chúng ta. Chính những tác động đó đang và sẽ đưa đến những tác hại quật ngược lại đối với mạng sống con người.

Thống trị trên tạo vật cũng không có nghĩa là chiếm hữu tạo vật, coi công trình sáng tạo của Thiên Chúa là một siêu thị, một thi trường mở rộng để mỗi cá nhân tha hồ cạnh tranh, tha hồ chiếm hữu. Đó cũng là thái độ nguyên tội của kinh tế lắm khi tạo ra bao nhiêu tệ nạn cho con người.

Làm việc là cộng tác sáng tạo với Thiên Chúa.  

Điều vừa kể có nghĩa là tôn trọng và gìn giữ các mục đích mà Thiên Chúa đã đặt vào bản tính của tạo vật, khi Người dựng nên.

Ý nghĩa đó nói lên con người có những giới hạn rõ ràng trong động tác làm việc của mình, mặc dầu với trí khôn được Chúa ban cho, con người vẫn có nhiều khoản không gian rộng lớn để triển nở trí sáng tạo của mình.

Các giới hạn mà con người phải lưu ý đến, đó là vạn vật được sáng tạo có trật tự thứ bậc nơi chính mình và xử dụng vạn vật bị bắt buộc phải xử dụng để mưu lợi ích cho tất cả mọi người, không trừ ai, đảng viên của Đảng và Nhà Nước hay không cũng vậy.

Vạn vật được sáng tạo, được dựng nên có trật tự nơi mình và đối với các tạo vật khác, điều đó con người hiện nay thường hay quên đi.

Bởi đó phát minh ra một sản phẩm mới không phải chỉ có nghĩa là mãnh lực của gân cốt, bấp thịt, mà còn là kết quả của trí khôn ngoan. Không có tạo vật nào được tạo dựng nên riêng rẽ, tách rời, mà luôn luôn hoà hợp với môi trường của mình. Điều đó có nghĩa là mỗi tạo vật được xác định bởi mối liên hệ của mình với cả thể giới được tạo dựng nên.

Giữa các tạo vật và chính con người cũng có mối tương quan trong trật tự thế giới-vũ trụ vừa kể.

Như vậy

   - " Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn địa đàng, để trồng trọt và canh giữ đất đai " ( Gen 2, 15) là động tác sản xuất và gìn giữ kính trọng các mối tương quan đó giữa các tạo vật. 

Đừng nên làm lẫn giữa tư tưởng về trật tự trong các tạo vật được Chúa sáng tạo với thứ tự phẩm bậc văn hoá, là những gì được các thói quen, truyền thống của con người đưa vào.

Cũng vậy, không nên tưởng rằng trật tự các tạo vật được dựng nên là trật tự, thứ bậc đã hoàn hảo rồi. Trật tự các sự vật được Chúa dựng nên là một nguyên tắc trật tự, thứ bậc được Chúa đặt vào để sống động hoá tạo vật  và mối liên hệ giữa chúng với nhau, chúng ta cần còn phải tìm hiểu để biết đưọc thoả đáng.

Lạm dụng và nô lệ hoá thiên nhiên đã khiến con người đặt mình trên trật tự các tạo vật được dựng nên và quên đi con người chúng ta cũng tùy thuộc phải lẽ vào tạo vật để sống.

Làm băng hoại môi trường, dùng súc vật một cách bất chính như là dụng cụ và cả việc pha trộn thủ chế ( manupuler) thân thể con người đang cho thấy là những hành động tai hại và hủy hoại đối với chính con người.

Ngày nay trong thế giới giàu sang dư dả của con người, không mấy ai còn nghĩ đến việc tiên liệu, giúp đỡ, giải quyết các vấn đề cho cuộc sống cá nhân, cho bằng mối lo âu làm sao bảo đảm cho sự sống còn của cả nhân loại. Càng ngày chúng ta càng ý thức rằng thái độ không tôn trọng đối với thế giới vật chất không con người, chúng ta sẽ không bao giờ có khả năng thực hiện hoàn hảo con người. Bởi đó không phải ít khi nhiều người đang suy nghĩ rằng cần phải trở về trạng thái trật tự của tạo vật.

Việc làm của con người phải khởi sự lại từ đây, từ việc duyệt xét lại vị trí của con người giữa thể giới được dựng nên.

Như vậy trước khi có tác động thống trị qua động tác làm việc của con người, con người cần phải nhận thức rằng mình cũng là tạo vật như tất cả những tạo vật khác trên thế gian và có liên hệ với chúng bởi một số mạng sống còn hay bị tiêu diệt.

Duới nhãn quang vừa kể, mọi thái độ đề cao quá đáng địa vị thượng đẳng của con người trên mọi tạo vật là thái độ không phải cách, bởi lẽ chính đời sống chúng ta nhiều khi tùy thuộc vào cả những tạo vật bé mọn, gần như vô nghĩa. 

Nhu vậy, nếu một mục đích của việc làm là " ...và canh giữ đất đai " ( Gen 2, 45), bảo vệ và canh giữ tạo vật , thì phận vụ đó là bổn phận phải có của con người đối với tất cả các tạo vật hiện diện khắp đó đây trên thế giới.

Con người làm việc được mời gọi hãy nói lên tiếng nói cho các tặo vật, định chuẩn giá trị của chúng. Hiểu như vậy, kỷ thuật thay vì có thái độ khiêu khích, xem tạo vật như là kho năng lượng và nguyên liệu cần phải khám phá, khai khẩn và lợi dụng để cho thấy quyền năng thống trị con người trên tạo vậy, thì trái lại, có lẽ con người nên có nhãn quang mới mẻ hơn, làm việc là để đem ra ánh sáng những gì còn đang được ẩn giấu trong tạo vật.

Con người làm việc, hiểu như vậy, là con người " trồng trọt và canh giữ đất đai ", chớ không phải làm việc để thu tóm, chất chứa và lợi dụng, bốc lột, tước đoạt. 

Bởi đó canh nông   là lãnh vự tiêu biểu cho ý nghĩa vừa kể của làm việc và bởi đó HDXHGH luôn luôn nhìn canh nông dưới nhãn quang đầy cảm tình:

   - " Động tác của người nông dân không kích động đất đai đồng ruộng. Trong động tác gieo giống, người nông dân ủy thác hạt giống cho sức manh phát triển của thiên nhiên và trông coi cho chúng lớn lên " ( S. Mosso, La Chiesa e il lavoro, Ed. Lavoro, Bologna 1982, p.187). 

Cả kỷ nghệ cũng được coi là động tác con người trên động tác của thiên nhiên. Kỷ nghệ cũng có thể được coi là động tác rút ra năng lượng và nguyên liệu đang còn tiềm ần trong thiên nhiên, miễn là động tác kỷ nghệ không đi ngược lại và làm tiêu diệt bản năng của vật liệu được dùng cho kỷ nghệ và phá hoại môi trường hiện hữu của các vật thể đó.

Hiểu như vậy, sự sáng tạo của kỷ nghệ càng làm cho con người sát gần hơn với Đấng Tạo Hoá, nhưng đồng thời cũng nói lên một mức quân bình rất khó thực hiện giữa sáng kiến của người làm việc và và tiềm năng đang ẩn chứa trong thiên nhiên ( M. Heidegger, Saggi e discorsi, trad. it. di G. Vattimo, Mussa, Milano 1976, p. II).

Bởi đó " gìn giữ và thống trị " không chỉ có nghĩa là để cho vạn vật sống còn, không bi phá hủy tiêu diệt hay chỉ để cho vạn vật tự chúng nảy sinh theo bản tính của chúng, mà còn là mở ra con đường cho những thực, hiên những kết quả mới đang còn tìm ẩn trong khả năng của chúng: bón phân thêm, lựa chọn giống sinh nhiều hoa quả tốt hơn, họp tập những khả năng khác hơn của nhiều loại thực vật với thực  vật hay động vật với động vật khác nhau, để được hoa trái nhiều hơn, lớn hơn, ăn ngon miệng với nhiều hương vị hơn, hoặc nhiều động vật có nhiều sức lực hơn để giúp trong việc đồng áng chẳng hạn.

Nhưng nên coi chừng luôn luôn phải đặt hai đặc tính " gìn giữ và thống trị " đi đôi với nhau, nếu chúng ta không muốn đạt được tiến bộ, nhưng đồng thời lại phá hủy thiên nhiên. 

Hiểu như vậy chúng ta thấy được việc làm của con người

   - không thể chỉ được xác định để đáp nhu cầu sơ đẳng của con người,

   - nhưng còn có ý nghĩa căn bản là bổn phận làm cho thiên nhiên được phát triển,

   - định chuẩn giá trị của những gì tự chúng bất động và cho phần thiên nhiên câm nín cũng có tiếng nói của chúng.

Con người làm việc là để mưu ích tốt đẹp cho cả thiên nhiên vạn vật.

Ý nghĩa vừa kể cho phép chúng ta liệt kê vào việc làm của con người, cả những động tác không chỉ nhằm trực tiếp đáp ứng lại nhu cầu sống còn của con người.

Và ngay cả việc làm nhằm đáp ứng lại những đòi hỏi sống còn của con người cũng cần có những suy nghĩ rộng rãi hơn và thay đổi chiều hướng hạn hẹp, chỉ nhằm lợi thú trước mắt, cá nhân hay phe nhóm, không đếm xỉa gì đến sự sống còn và phát triển của thiên nhiên.

 Làm việc và quyền tư hữu.

Dưới một nhãn quang nào đó, con người cũng là tạo vật như những tạo vật khác, nhưng dưới một nhãn quang khác, không ai có thể chối cải được con người trong thiên nhiên có một sứ mệnh, phận vụ đặc biệt.

Điều vừa kể ai cũng thấy được, không những do những gì Thánh Kinh thuật lại, mà ngay cả trong kinh nghiệm của tất cả.

Tín lý về việc tạo dựng cho rằng địa vị cá biệt đó của con người trên thế giới là địa vị do Chúa muốn:

   - " Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào Vườn Địa Đàng, để trồng trọt và canh giữ đất đai " ( Gen 2, 15).

Địa vị đó của con người đối với thiên nhiên không phải là những gì con người chính phục được hay là một chiến thắng trong cuộc đấu tranh giữa các giống loại với nhau. Càng không phải chỉ là đặc ân dành riêng cho những ai có trí óc hơn, có khả năng hơn, hoặc của những ai thắng trận được trong cuộc chiến dành quyền sống còn, càng không phải do việc hên xuôi may rủi, như trong một cuộc xổ số.

Mỗi người, do sự kiện là người thuộc dòng gióng nhân loại, đã được Thiên Chúa nghĩ đến và muốn cho là người gìn giữ va thống trị thiên nhiên vạn vật, từ những giống vật khôn ngoan nhứt đến những giống kém nhứt, từ những giống đẹp nhứt đến những giống xấu xí nhứt, từ những giống lành mạnh nhứt, đến những giống èo uột yếu kém nhứt.

  - " Thiên Chúa phán: " Ta hãy tạo dựng con người theo hình ảnh Ta, giống như Ta, để cho con người làm bá chủ cá biển chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất " ( Gen 1, 26).

Điều đó cho chúng ta hiểu được lý do cho sự biện minh địa vị thống trị con người trên tạo vật.

Nếu ai khước từ tín lý về công cuộc sáng tạo, ơn gọi trên của con người không còn là ơn gọi nguyên thủy nữa, mà chỉ là kết quả của những gì do nền văn minh phát triển chiếm được.

Và nếu hiểu như vậy, địa vị thống trị của con người trên vạn vật không còn có lề luật lằn mức nào nữa và cũng không phải cho tất cả mọi người, mà chỉ là quyên lực của những kẻ giàu có, uy quyền hoặc phe nhóm, phái giống nào đó.

Trái lại, nếu thống trị trên vạn vật là phận vụ được Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo vũ trụ giao cho mỗi ngưới, bất cứ ai là con người của dòng giống nhân loại, chúng ta thấy được địa vị đó được trải rộng ra cho mọi con người, như là đại diện Thiên Chúă Tạo Hoá trên trần gian.  

Hiểu được như vậy, chúng ta hiểu được tại sao các Thông Điệp về xã hội cuối cùng ( Laborem exercens, Sollecitudo rei socialis, Centesimus annus) nhấn mạnh đến đặc tính phổ quát của tài nguyên, của cải trên mặt đất ( CA, n. 31):

   - " Thiên Chúa đã ban mặt đất để dùng và hưởng thụ cho cả dòng giống nhân loại, bởi vì Thiên Chúa không ban cho con người để tất cả đều có quyền sở hữu chung và rối loạn. Đây không phải là ý nghĩa của chân lý đó. Điều đó chỉ có nghĩa là Thiên Chúa không giao một phần đất nào cho bất cứ một người cá biệt nào, nhưng để việc phân chia các quyền sở hữu cho khả năng sắp xếp của con người và cho các tổ chức cơ chế của các dân tộc. Nói cho cùng, mặc dầu được chia thành các quyền tư hữu, đất đai vẫn còn được dùng để phục vụ và lợi ích cho tất cả, như vậy không ai trên thế giới mà không tìm đuợc thức ăn từ các sản phẩm đồng áng " ( RN, n.7 ). 

Như vậy chúng ta có thể nói là mọi sự vật đều được ban cho mỗi người, để con người thống trị và quản trị theo đồ án của Thiên Chúa, nghĩa là có lợi ích cho tất cả mọi người.

Con người làm việc từ lúc khởi đầu đã có trước mặt mình cả cánh động được dựng nên. Như vậy anh ta có trăm phương ngàn cách để tác động khả năng sáng tạo của mình và phận vụ mình.

Mọi người đều có quyền tác động mỗi việc làm và không có việc làm nào dành riêng cho một người nào.

Tuy nhiên do tính cách giới hạn của con người ( mặc dầu trước viễn ảnh bao la của nhiều hình thức làm việc khác nhau, nhưng mỗi người chúng ta có giới hạn trong việc chọn lựa việc làm tùy theo khả năng cá nhân, trên thị trường làm việc hiện đại), chúng ta nhận thức được chúng ta còn xa xôi so với đồ án nguyêh thủy của công trình sáng tạo, của đồ án dành cho nhân loại và cuộc sống ngắn ngủi của con người, chúng ta bị bắt buộc đặt trọng tâm việc làm vào một lãnh vực xác định và cũng không phải lúc nào cũng có thể thay đổi việc làm trong cuộc sống.

Điều vừa kể có nghĩa là mỗi người chúng ta có một mối tương quan đặc thù với một phần bé nhỏ của thế giới được tạo dựng và điều đó có liên quan thiết yếu đến quyền tư hữu. 

Để có được quyền tư hữu tài nguyên của cải và chiếm hữu tài sản, cần phải có sự phân chia và quy hữu cho từng cá nhân, để cho tài sản được thể hiện một cách có trật tự theo mục đích nguyên thủy của mình, đó là  được cộng đồng con người quản trị.

Nhưng điều quan trọng là việc xử dụng các tài sản đó phải nhằm lợi ích cho tất cả.

Tư hữu có lý do chính đáng bởi vì đó là phương thế cho phép mỗi con người đều có thế dùng chung các tài sản.

Trái lại nếu tước bỏ đi quyền tư hữu, mỗi con người trong địa vị cá nhân của mình bị làm cho trở thành bất lực tự mình đáp ứng lại ơn gọi tiên khởi là thống trị mọi vạn vật được dựng nên.

Trong tình trạng như vậy, quyền thống trị vạn vật nguyên thủy được thiết dịnh lúc Thiên Chúa sáng tạo vạn vật sẽ bị ủy thác cho một công đồng vô danh tánh, chiếm hữu công quả việc làm của mỗi người, tước bỏ đi mọi trách nhiệm sản xuất và phân phối các tài sản đó.

Điều đó đưa đến kết quả là người làm việc bị giảm thiểu địa vị của mình và làm cho mình không có trách nhiệm gì nữa:

   - " Quyền tư hữu hay một quyền nào đó trên của cải vật chất bảo đảm cho mỗi người có được một khoản không gian tự lập cần thiết cá nhân và gia đình. Của cải vật chất bên ngoài đó phải được coi như là một sự nối dài của tự đo con người. Chính quyền tư hữu, tự bản thế mình, cũng có động tác xã hội, được đặt trên nền tảng luật về mục đích chung của tài sản " ( Gaudium et spes, n. 71)  

Thuộc về lãnh vục làm việc và người làm việc

   - không những là động tác sản xuất,

   - mà còn có động tác can thiệp vào việc phân chia các kết quả của việc mình làm ( S. Tommaso d'Aquino, Summa Theologia, II = II, q.66).

Quan niệm về chủ quyền hay sở hữu chủ của HDXHGH bao gồm cả tư tưởng nầy lẫn tư tưởng kia, bởi vì mục đích của làm việc được hàm chứa trong ý nghĩa của việc làm.

Quyền tư hữu là một trong những hình thức cần thiết để

   - bảo đảm cho phận vụ sản xuất

   - và phân chia trong ý nghĩa tổng quát của nó.

Về phía mình, quyền tư hữu trên phương diện lề luật luân lý , con người không được dùng của cải vật chất như là những gì riêng tư của mình, mà như là của chung, làm thế nào để cho người khác cũng có thể dự phần vào được trong trường hợp cần thiết.

 

Tác giả:  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!