SUY NIỆM PHÚC ÂM ( IV A 50 ); ( 02.10.2011) ; ( Mt 21, 33-43)
CHÚA NHẬT XXVII PHỤNG VỤ THƯỜNG NIÊN, NĂM A.
NGUYỄN HỌC TẬP
Trong bài Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay ( Mt 21, 33-43), Thánh Matthêu thuật lại những lời giảng dạy của Chúa Giêsu dưới hình thức dụ ngôn, dụ ngôn những tá điền ương ngạnh và sát nhân.
Dụ ngôn hôm nay là dụ ngôn cuối cùng trong ba dụ ngôn về
- vườn nho, ( dụ ngôn cây vả không sinh trái (Mt 21, 18-22),
- dụ ngôn hai người con trai được cha sai ra vườn nho làm việc ( Mt 21, 28-32)
- và dụ ngôn những tá điền ương ngạnh và bạo ngược ( Mt 21, 33-43).
Cả ba dụ ngôn được Chúa Giêsu giảng dạy để kêu gọi những ai lắng nghe Ngài hãy hối cải, từ bỏ tội lỗi bất chính, quay về với lòng nhân hậu kiên nhẫn của Thiên Chúa.
Dụ ngôn hai người con trai được cha sai ra vườn nho được Đức Giêsu dùng để trả lời cho các thầy thượng tế và kỳ mục khi họ chất vấn Ngài lấy danh nghĩa ai mà dám đứng ra giảng dạy trong đền thờ :
- « Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy ? Ai đã cho ông quyền ấy ? » ( Mt 21, 23) .
Thật ra họ chất vấn để chất vấn chớ không phải để tìm ra nguồn gốc quyền lực của Chúa Giêsu và tin vào Ngài. Bởi lẽ họ thừa biết quyền lực của ông Gioan Battista là quyền lực từ Thiên Chúa, nhưng họ vẫn không tin :
- « Vậy phép rửa của ông Gioan do đâu mà có ? Do Trời hay do người ta ? Họ mới nghĩ thầm: Nếu mình nói do Trời , thì ông ấy sẽ vặn lại: Thế sao các ông lại không tin ông ấy? Còn nếu mình nói do người ta, thì sợ dân chúng, vì ai nấy đều cho ông Gioan là ngôn sứ " ( Mt 21, 25-26).
Và mặc dầu đứng trước con đường không có lối thoát như vậy, nhưng lòng chai đá con người của họ vẫn khiến họ không tin.
Trước thái độ ương ngạnh bất chấp vô lý đó, Chúa Giêsu không còn có phương thức nào khác là chỉ cho họ một con đường, con đường của những người tội lỗi và bé mọn, biết khiêm nhường nhìn nhận thân phận yếu hèn của mình, để dựa đầu vào lòng từ bi vô hạn của Thiên Chúa và hối cải:
- " Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông. Vì ông Gioan đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những ngưòi thu thuế và những cô gái điếm lại tin..." ( Mt 21, 31-32).
Con đưòng vừa kể được Chúa Giêsu vạch ra cho những tâm hồn cứng cỏi, Ngài dạy họ để họ liên tưởng đến những lời kêu gọi của Thiên Chúa trong Cựu Ước, trong lịch sử của dân Do Thái:
- " Nhưng Thiên Chúa đã dùng tất cả các ngôn sứ và các thầy chiêm mà cảnh cáo Israel và Giuda: Hãy trở lại, bỏ con đường tà của các ngươi, hãy tuân giữ các mệnh lệnh và quy tắc của Ta, đúng theo lề luật Ta đã truyền cho cha ông các ngươi, và Ta đã chuyển đến các ngươi nhờ các ngôn sứ tôi trung của Ta. Nhưng họ đã không nghe lời, họ cứng đầu cứng cổ như cha ông họ, những người không tin vào Chúa, Thiên Chúa của họ...Thiên Chúa nổi cơn thịnh nộ với Israel và đẩy Israel cho khuất nhan Người. Chỉ còn lại chi tộc Giuda" ( II Re 17, 13-33).
Đề cập đến ông Gioan trong dụ ngôn cây vả, dụ ngôn hai người con trai được sai ra vườn nho làm việc, cũng như liên tưởng đến giai đoạn lịch sử khi Samaria, thủ đô miền bắc của Do Thái bị mất về tay quân Assiri năm 722 trước Thiên Chúa Giáng Sinh, qua đoạn Cựu Ước chúng ta vừa đọc, Chúa Giêsu có ý nhắc cho những người đang trực diện lắng nghe Ngài , nhứt là các thầy thượng tế và các kỳ mục, rằng Thiên Chúa đã làm mọi cách trong lịch sử cứu rổi, để giải thoát chúng ta. Việc chúng ta để cho " những người thu thế và các cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông " từ nay chỉ còn tuỳ thuộc vào chúng ta mà thôi, tùy vào việc chúng ta có biết để tâm hồn chúng ta rộng mở đón nhận lời kêu gọi cứu rổi của Ngài hay không:
- " Vì ông Gioan đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những ngưòi thu thuế và những cô gái điếm lại tin" (Mt 21, 32).
Việc liên tưởng đến tất cả các ngôn sứ trong Cựu Ước, cũng như đề cập đến ông Gioan trong dụ ngôn hai người con và cây vả trước khi giảng dụ ngôn về những tá điền ương ngạnh và bạo ngược cho thấy Chúa Giêsu dọn đường cho giai đoạn cánh chung (escathologique), trong đó sự nhập thể hiện diện của Ngài ở giữa chúng ta là thời điểm duy nhất và tối hậu của lịch sử cứu rổi: chấp nhận Ngài để được cứu rổi hay chúng ta sẽ mất Ngài vĩnh viễn. Bởi lẽ Ngài là Con Thiên Chúa, là ngôi Lời Thiên Chúa , là Thiên Chúa đến để mạc khải Thiên Chúa cho chúng ta, sau khi đã sai tất cả các ngôn sứ tiên báo về Ngài.
Sau Ngài sẽ không còn có một Thiên Chúa nào khác mặc khải cho chúng ta. Bởi lẽ Ngài là Thiên Chúa mạc khải chính mình Ngài cho chúng ta.
Chấp nhận hay không chấp nhận Ngài, chỉ có vậy.
Chúng ta muốn được cứu rổi, chấp nhận Ngài, chấp nhận những lời huấn dạy của Ngài, chấp nhận Phúc Âm của Ngài hay chúng ta ương ngạnh cố tâm từ chối để cho " ...những người thu thế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông..." ( Mt 21, 31) tùy chúng ta định đoạt.
Con đường cứu rổi chúng ta vừa đề cập được Chúa Giêsu diễn tả cho chúng ta trong dụ ngôn những tá điền ương ngạnh và bạo ngược hôm nay.
Trước hết Thiên Chúa ân cần, chăm sóc lo lắng mọi cách để giải thoát chúng ta, như người chủ vườn nho chăm sóc vườn nho của ông:
- " Có gia chủ kia trồng được một vườn nho; chung quanh vườn, ông rào giậu; trong vườn, ông khoét bồn đạp nho, và xây một tháp canh" ( Mt 21, 33).
Và rồi ông sai các ngôn sứ đi trước để báo cho tá điền lo hái gặt nho, thu hoa lợi, như các ngôn sứ trong Cựu Ước và ông Gioan để chuẩn bị trước:
- " Gần đến mùa hái nho, ông sai đầy tớ đến gặp các tá điền để thu hoa lợi" (Mt 21, 34).
Các đầy tớ của chủ vườn, cũng như các ngôn sứ và ông Gioan không được tiếp đón như là những người đại diện cho chủ vườn:
- " Bọn tá điền bắt các đầy tớ ông: chúng đánh người nầy, giết người kia, ném đá người nọ. Ông sai một số đầy tớ khác đông hơn trước: nhưng bọn tá điền cũng xử với họ y như vậy"( Mt 21, 35-36).
Thiên Chúa đã ân cần lo lắng mọi cách cho chúng ta trong chương trình cứu rổi của Ngài, như người chủ vườn nho lo lắng. Thiên Chúa đã không ngừng sai các ngôn sứ Ngài đến với chúng ta để chỉ dẩn chúng ta con đường cứu rổi, thánh ý của Ngài.Và phương thứ cuối cùng cho chúng ta được rổi, Ngài cũng không ngần ngại đó là sai Con Một Ngài đến với chúng ta, để hướng dẫn, nói lên tình thương của Ngài đối với chúng ta, mạc khải cho chúng ta biết địa vị cao cả của chúng ta là con Ngài, cho dầu sứ mạng đó Con Một Ngài đã phải trả giá bằng cái chết:
- " Sau cùng ông sai chính con trai mình đến gặp chúng, vì nghĩ rằng : Chúng sẽ nể con ta" ( Mt 21, 37).
Nói tóm lại, để cứu rổi chúng ta, Thiên Chúa đã không từ chối một điều gì. Giờ đây sự cứu rổi chúng ta chỉ tùy thuộc vào chúng ta.
Tùy ở chúng ta chịu tin và thực hành ý muốn của Ngài hay chúng ta vẫn như các thầy tư tế, các kỳ mục và những người pharisêu:
- " Phần các ông, khi các ông đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy" ( Mt 21, 32).
Tùy ở việc chúng ta có " ...bỏ con đưòng tà của các ngươi, hãy tuân giữ các mệnh lệnh và quy tắc của Ta, đúng theo lề luật Ta đã truyền cho cha ông các ngươi..." ( II Re 17, 13-23).
Tùy ở việc chúng ta có hành động theo " trong hai người đó, ai là người đã thi hành theo ý muốn của người cha?" ( Mt 21, 31) hay không.
Thái độ bất tuân và không đếm xỉa gì đến lời những hành động ân cần và lòng đại lượng đến nỗi không ngần ngại sai Con Một Ngài đến để mạc khải cho chúng ta, chúng ta sẽ phải trả đắc giá qua lời cảnh cáo của Đức Giêsu:
- " Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi" ( Mt 21, 43).
Và Chúa Giêsu đã kết thúc dụ ngôn bằng câu trích từ Thánh Vịnh 118:
- " Tảng đá bị thợ xây nhà loại bỏ, lại trở nên tảng đá góc tường: đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta" ( Mt 21, 42; cf. Ps 118, 22-23), để nói cho chúng ta biết Ngài là con Thiên Chúa. Mặc dầu Ngài sẽ bị khổ hình,
- " Nghe những dụ ngôn vừa kể, các thượng tế và người Pharisêu hiểu là người nói về họ. Họ tìm cách bắt Người..." ( Mt 21, 45).
Cùng chung số phận với người con trai của ông chủ vườn nho trong dụ ngôn:
- " Đây thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi và đoạt lấy gia tài nó! Thế là chúng bắt lấy cậu, quăng ra bên ngoài vườn nho, và giết đi " ( Mt 21, 38-39) .
Nhưng vì Ngài là Con Thiên Chúa, là nguồn gốc căn cội của mọi tạo vật hiện hữu trên trần gian, là " đá tảng góc tường", nên Chúa Cha sẽ làm cho ngài sống lại,
- " Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta" ( Ps 118, 22).
Chúa Giêsu mượn lời của Thánh Vịnh để nói về cuộc Phục Sinh của Ngài với ý nghĩa sâu thẩm của đức tin, bởi lẽ không thể tường thuật lại như là một sự kiện lịch sử thông thường, một biến cố trần thế.
Chúa Giêsu sống lại là một biến cố đức tin , cần được tuyên xưng vì là công trình của Thiên Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta.
Và tuyên xưng sự sống lại của Chúa Giêsu là tuyên xưng sự cứu độ Thiên Chúa đã thực hiện cho chúng ta:
- " Nếu miệng anh em tuyên xưng Chúa Giêsu là Chúa và lòng anh em tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cỏi chết, thì anh em sẽ được cứu độ. Quả thế, có tin thật trong lòng, mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ ".( Rm 10, 9-10).