NGUYỄN HỌC TẬP
1 - Những hiểu biết mới của Công Đồng Vatican II.
Những hiểu biết mới về tín lý và mục vụ của Công Đồng Vatican II là những lý chứng quyết định về phương diện thần học cho phương hướng mới Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội, trước những biến chuyển sâu đậm của xã hội đang đòi hỏi.
Công Đồng Vatican II đạt đến những hiểu biết thần học mới về vai trò của người tín hữu giáo dân và đặc tính tự lập của các thực tại trần thế, mà trong Thông Điệp Rerum Novarum ( 1891) chỉ mới được thoáng thấy như là mầm mống và dần dần mỗi ngày càng tăng trưởng lên qua các giai đoạn " Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội ".
Thật vậy Công Đồng Vatican II đã vượt qua quan niệm " Giáo Hội phẩm trật " ( Église cléricale), trong đó người tín hữu giáo dân không có bất cứ một quyền gì,
- ngoài ra " quyền phải để cho mình được dẫn dắt và dễ dạy như đoàn chiên, đi theo các mục tử của mình " ( ĐTC Pio X, Vehementer ( 11.02.1906), in Tutte le encicliche dei sommi Pontefici ( cit., 561).
Tức là người tín hữu giáo dân phải thụ động tuân theo các chỉ thị của giáo quyền ngay cả trong lãnh vực xã hội, bởi lẽ họ được coi như là
- " những thành phần trợ lực phụ giúp của Giáo Hội " ( ĐTC Pio XI, Quadragesimo anno ( 15.05.1931), n. 152, in CERAS, 113).
Sau khi xác nhận trách nhiệm và đặc tính tự lập của người tín hữu giáo dân trong cuộc sống chuyên cần dấn thân giữa trần thế, trong Thông Điệp Mater et magistra ( 1961), ĐTC Gioan XXIII đề cập đến sự kiện " phải bước đến hành động ", là
- " bổn phận nhứt là của các con cái giáo dân ( ...) bởi đặc tính cuộc sống của họ " ( ĐTC Gioan XXIII, Maer et magistra / 15.05.1961), n. 240, in CERAS, 273).
Bởi đó, ĐTC tiếp theo, bởi đó người tín hữu giáo dân không những chỉ phải là những người có thẩm quyền khả năng ( competenti ) trong nghề nghiệp của mình, nhưng
- " họ còn phải tác động trong các lãnh vực trần thế theo lề luật liên hệ đến bản tính nội tại của các sự việc đó, để đạt đến một cách hữu hiệu mục đích nhằm đến " ( id., n.241, in CERAS, 273), trong khi hành động hợp với lương tâm được giáo dục đúng đắn và với Giáo Huấn của Giáo Hội.
Bởi đó, người tín hữu giáo dân, đối với các lãnh vực trần thế, phải tôn trọng đặc tính trần thế của các sự viêc mà trong đó mình phải tác động.
Ba năm sau, trong Thông Điệp Pacem in terris ( 1963), ĐTC Gioan XXIII xác nhận tính cách tự lập chính đáng của người tín hữu giáo dân trong các chuyên cần động tác xã hội, đến độ cần phải ủy thác cho phán đoán của lương tâm họ về việc nên hay không nên cộng tác với những ai không tin hay ai có hay theo khuynh hường quan niệm sai lạc về lịch sử:
- " Quyết định đó - Thông Điệp Pacem in terris nhấn mạnh - trưóc tiên thuộc về thẩm quyền của những ai sống và hành động trong những lãnh vực cá biệt của cuộc sống chung, trong đó phát sinh ra những vấn đề ", dĩ nhiên là luôn luôn phải trung thành và ngoan ngoản vâng theo lời huấn dạy của Giáo Hội " ( ĐTC Gioan XXIII, Pacem in terris ( 11.04.1963), n. 160, in CERAS, 328).
Đến đây thì ĐTC Gioan XXIII thiết định một nguyên tắc quan trọng về việc " đối thoại " phổ quát mà Giáo Hội và mọi Ki Tô hữu được mời gọi hãy thực hiện
- " Chúng ta đừng nên lầm lẫn giữa sự sai lạc và người lầm lỗi, ngay cả khi có liên quan đến việc sai lạc hay sự hiểu biết không đầy đủ về chân lý trong lãnh vực luân lý và tôn giáo ( ...) nói đùng hơn, những cuộc gặp gỡ và hiểu biết nhau, trong những lãnh vực trần thế khác nhau, giữa người tín hữu và người không tin hay người tin một cách không đúng đắn, bởi vì họ tuân theo những điều sai trái, những cuộc gặp gỡ và hiểu biết nhau đó có thể là những cơ hội để khám phá ra đâu là chân lý và làm vinh danh cho chân lý " ( id., n 158, in CERAS, 327).
Đức Thánh Cha kế tiếp sẽ làm cho các lời dẫn nhập thần học và mục vụ nầy của ĐTC Gioan XXIII trở thành nền tảng của sự đối thoại giữa Giáo Hội và thế giới đương thời.
ĐTC Gioan XXIII mở đường, ĐTC Phaolồ VI dành Thông Điệp đầu tiên của triều đại ngài, Ecclesiam suam (1964), cho việc đối thoại.
Công Đồng Vatican II xác nhận một cách long trọng việc lựa chọn đó trong Hiến Chế Gaudium et spes ( 1965).
Và ĐTC Phaolồ VI tuyên bố:
- " Giáo Hôi phải gặp gỡ đối thoại với thế giới, mà trong đó mình đang sống. Giáo Hội nói lên tiếng nói của mình, Giáo Hội loan truyền sứ điệp của mình, Giáo Hội trở thành chủ thể đối thoại " ( ĐTC Phaolồ VI, Ecclesiam suam ( 06.08.1962), in EV 11/192).
Và Công Đồng Vatican II lập lại như là tiếng dội, những gì ĐTC Phaolồ VI đã xác nhận trong Thông Điệp:
- " Giáo Hội không thể nào chứng minh hùng hồn hơn được bằng tình liên đới, lòng kính trọng và tình yêu thương đối với cả gia đình nhân loại, mà trong đó Giáo Hội được hội nhập, hơn là thiết lập nên một sự đối thoại với gia đình nhân loại đó " ( Gaudium et spes, n. 3, in EV 1/1322).
ĐTC Phaolồ VI còn nhấn mạnh thêm:
- " Giáo Hội phải sẵn sàng để trợ lực sự đối thoại với tất cả mọi người thành tâm thiện chí, trong cũng như ngoài lãnh vực của Giáo Hội. Không ai là người xa lạ đối với tình yêu thương của Giáo Hội. Không ai là người vô thưởng vô phạt đối với sứ mạng của Giáo Hội. Không ai là kẻ thù của Giáo Hội, mà không phải chính họ muốn như vậy ( ...) Nhu vậy chính con người đang tìm hiểu về chính mình và thế giới, chúng ta có thể thông giao với họ " ( ĐTC Phaolồ VI, Ecclesiam suam ( 06.08.1962), in EV II/200).
Đó chính là tư tưởng tạo nên tiếng dội có uy tín trong Công Đồng Vatican II:
-" Đối với chúng tôi, lòng ao ước thiết lập nên sự đối thoại, được lòng yêu mến chân lý gợi ý ( ...) không loại trừ bất cứ một ai; cả đối với những ai tôn trọng những giá trị cao cả của con người, mặc dầu họ vẫn chưa nhận thức được những giá trị đó, ngay cả đối với những ai chống lại Giáo Hội và bách hại Giáo Hội với nhiều phương thức khác nhau " ( Gaudium et spes, n. 92, in EV I/1642).
ĐTC Phaolồ VI không ngần ngại nhận biết rằng trong thế giới hiện đại có những giá trị chính đáng, phổ quát, không xa lạ gì đối với Phúc Âm
- " Chúng ta cùng có chung với cả nhân loại thiên nhiên, nghĩa là đời sống với tất cả các ơn sủng của nó, với tất cả những ván đề của nó " ( ĐTC Phaolồ VI, Ecclesiam suam ( 06.08.1962), in EV II/201).
Tư tưởng vừa kể cũng tạo nên tiếng dội trong Công Đồng Vatican II:
- " Giáo Hội không khước từ những gì mình đã nhận được từ lịch sử và tiến bộ của nhân loại, Giáo Hội có thể thu nhận những điều đó làm kho tàng gia sản của mình, và Giáo Hội thực hiện như vậy. Giáo Hội thu nhận làm kho tàng gia sản của mình sự phát triển đời sống xã hội. Hành xử như vậy, không phải vì Giáo Hội tự bản thể của mình thiếu thốn đi một cái gì đó không được Chúa Ki tô ban cho, nhưng là thu nhận để hiểu biết được sâu đậm hơn, để diễn giải một cách sâu đậm hơn những gì được Chúa cho tự bản thể và áp dụng có hiệu quả hơn cho các thời đại chúng ta " ( Gaudium et spes, n. 44, in EV I/1462).
2 - Ý nghĩa mới về Xã Hội của Giáo Hội.
Qua những gì chúng ta đề cập ở trên, chúng ta có thể hiểu được phương thức mới của Giáo Hội được áp dụng cho Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội
Mặc dầu ĐTC Gioan XXIII vẫn còn dùng cách phát biểu " huấn dụ xã hội của Giáo Hội ", nhưng không còn cùng một ý nghĩa như những vị tiền nhiệm ngài.
Thông Điệp Mater et magistra rõ ràng đưa ra một thể thức khác để đề cập đến " vấn đề xã hội ", bởi lẽ vấn đề đã thay đổi sâu đậm.
Tiến trình thành hình những Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội không còn phát sinh từ phương thức diễn dịch ( deduttivo ) nữa, tức là dựa trên những nguyên tắc thượng đẳng về luật tự nhiên và mạc khải, qua phương thức diễn dịch để rút ra một khuôn mẫu " xã hội Ki tô giáo ", như là " con đường thứ ba " thay thể cho khuôn mẫu các ý thức hệ khác.
Đức Thánh Cha Gioan XXIII bắt đầu dùng phương thức quy nạp ( induttivo ), trong đó tiến trình cấu trúc huấn dụ gồm ba giai đoạn:
- khám phá ra những hoàn cảnh, hiện trạng mới,
- xác định giá trị những biến cố đó trong ánh sáng các nguyên tắc Phúc Âm và theo những định hướng của giáo quyền,
- tìm kiếm và xác nhận những gì có thể và phải làm.
Nói một cách ngắn gọn, đó là cần phải :
- " nhận thức, phán đoán và hành động " ( ĐTC Gioan XXIII, Mater et magistra ( 15.05.1961), n. 236, in CERAS, 272).
Hai năm sau, Thông Điệp Pacem in terris là văn kiện đầu tiên về xã hội áp dụng phương thức mới, phương thức quy nạp.
Khởi điểm của Thông Điệp không được cấu tạo nên bằng những nguyên tắc lý thuyết về quyền tự nhiên và mạc khải, mà được khởi điểm từ những gì Giáo Hội nhận thấy từ " các dấu chỉ thời đại " ( signa temporis).
Dĩ nhiên lời Chúa và các lời huấn dạy của Giáo Hội vẫn luôn luôn là định điểm quy chiếu đê " giải thích " các thách thức cho đức tin, được gây ra bởi những thay đổi xã hội và để soi sáng cho các việc lựa chọn chính đáng cần phải thực hiện.
Như vậy tiến trình để kiến tạo Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội không còn phải theo phương thức diễn dịch nữa, mà là áp dụng tiến trình quy nạp: nhìn thấy, phán đoán và hành động.
Phương thức quy nạp vừa kể cũng được Công Đồng Vatican II áp dụng trong lãnh vực xã hội, trong tiến trình soạn thảo Hiến Chương Mục Vụ Gaudium et spes ( 1965), và cũng được ĐTC Phaolồ VI dùng đến trong Thông Điệp Populorum progressio ( 1967).
Một vài năm sau đó, trong Thông Điệp Octogesima adveniens ( 1971), được viết lên nhân dịp kỷ niệm 80 năm Thông Điệp xã hội đầu tiên Rerum novarum ( 1891), ĐTC Phaolồ VI quy định một cách rõ ràng phương thức quy nạp trong lãnh vực huấn dạy về vấn đề xã hội của Giáo Hội, sau Công Đồng Vatican II:
- " Các cộng đồng Ki Tô giáo có bổn phận
* phân tích một cách khách quan hoàn cảnh xứ sở của họ,
* làm sáng tỏ các hoàn cảnh đó trong ánh sáng bất di dịch của Phúc Âm, múc lấy các nguyên tắc suy tư , tiêu chuẩn để phán đoán và định hướng để hành động trong lời huấn dạy xã hội của Giáo Hội ( ...)
* xác định, với sự bảo trợ của Chúa Thánh Thần, cùng thông hiệp với các Giám Mục đặc trách, và trong việc đối thoại với các anh em Ki tô hữu khác và với tất cả mọi người thành tâm thiện chí, đâu là những điều phải lựa chọn và chuyên cần dấn thân để tác động chuyển hoá xã hội, chính trị và kinh tế " ( ĐTC Phaolồ VI, Octogesima adveniens ( 14.05.1971), n.4, in EV IV/ 717 ).
Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II cũng dùng từ ngữ " huấn dụ xã hội của Giáo Hội ", nhưng không ai có thể nghi ngờ về ý nghĩa mà ngài hiểu đối với cách phát biểu đó, hoàn toàn tiếp nối với định nghĩa được ĐTC Phaolồ VI nói lên, mà chúng ta vừa trích dẫn.
Thật vậy, trong Thông Điệp Sollecitudo rei socialis ( 1987), ĐTC Gioan Phaolồ II xác nhận
- " Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội " không phải là " con đường thứ ba" giữa tư bản tự do và tập thể mác xít và cũng không thể là phương thức để thay thế cho những giải pháp ít cực đoan hơn đồi nghịch nhau. Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội là một phương thức tự lập riêng biệt " ( ĐTC Gioan Phaolồ II, Sollecitudo rei socialis ( 30.12.1987), n. 41, in EV X/ 2669).
Như vậy định nghĩa của ngài về Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội cũng là huấn dụ theo phương thức quy nạp, đã được ĐTC Gioan XXIII nêu lên trước đó, được Công đồng Vatican II áp dụng và được ĐTC Phaolồ VI định nghĩa rõ như chúng ta vừa thấy ở trên.
Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội, Thông Điệp Sollecitudo rei socialis nói tiếp, gồm trước tiên là khám phá ra " các dấu chỉ thời đại ", hay " nhận thức được " nói như ĐTC Gioan XXIII. Đó là
- " diễn tả ra một cách cẩn thận các kết quả một việc suy tư có cân nhắc về các thực trạng phức tạp cuộc sống con người, trong xã hội và trong bối cảnh quốc tế, dưới ánh sáng đức tin và truyền thống Giáo Hội ";
- kế đến, Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội gồm ở việc " phán đoán ". Thật vậy, " mục đích chính của thái độ chuẩn định phán đoán đó, đó là giải thích các thực tại vừa kể, duyệt xét xem những thực tại đó thích hợp hay không thích hợp với các đường hướng huấn dạy của Phúc Âm về con người và về ơn gọi trần thế và thiêng liêng của con người ";
- sau cùng là " hành động ". Thật vậy, quan sát để hiểu biết các " dấu chỉ thời đại " dưới ánh sáng Phúc Âm và lời huấn dạy của Giáo Hội, để " định hướng tác động " các công đồng Ki Tô hữu. Điều đó được ĐTC Gioan Phaolồ II giải thích, bởi vì chúng ta có thể nói rằng
- " Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội thuộc về (...) không phải lãnh vực ý thức hệ, mà là thuộc lãnh vực thần học và nhứt là thần học luân lý " ( id.).
Như vậy, chúng ta hiểu được đã đến lúc đề cập đến một loại Huấn Dụ Xã Hội mới của Giáo Hội,
- sau khi các ý thức hệ đã sụp đổ,
- cũng như với hiện trạng toàn cầu hoá đang tiến trình trong thời đại chúng ta,
- và với những hiểu biết quan trọng mới về tín lý và mục vụ của Công Đồng Vatican II.
Như vậy, trong những thập niên sau cùng của thế kỷ chúng ta, thời kỳ đối thoại giữa Giáo Hội và thế giới đương thời đã bắt đầu.
Thời điểm tách rời, đóng kín, gảy đổ, gián đoạn, " dứt phép thông công " đã chấm dứt, cũng như ký ức về một " Ki Tô giáo bị mất đi " cũng không còn.
Từ nay Giáo Hội đang hướng về sứ mạng Phúc Âm hoá ngàn năm thứ ba .