Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến Hùng
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  Tư Liệu Giáo Hội
TÌM HIỂU HUẤN DỤ XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI ( 2 )

NGUYỄN HỌC TẬP

 

Ý thức hệ công giáo ( 1891-1931). 

Năm 1891, Thông Điệp Rerum Novarum của Đức Thánh Cha Leo XIII chính thức mở đầu Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội.

Thông Điệp được viết ra trong bối cảnh chạm trán thẳng thừng giữa Giáo Hội và thế giới hiện trạng lúc đó.

Đó là một thế giới được sinh ra, trong suốt thế kỷ 16 với R. Descartes, G. Gallilei, J. Bodin, P. Bacon, H. Grotius, J. Locke và lớn lên trong thế kỷ 17 với thiên khải chủ nghĩa ( illuminismo).

Đó là một thế giới trần tục, được sinh ra bên ngoài và chống lại Giáo Hội,

   - không phải chỉ nhằm cất bỏ đi những đặc ân cổ truyền mà Giáo Hội được dành cho,

   - mà còn quyết tâm nhằm giảm thiểu các quyền và tự do của Giáo Hội, bằng cách đặt Giáo Hội ra bên lề đời sống công cộng của xã hội, loại trừ đi chính đức tin tôn giáo, nếu có thể, bằng cách dùng những lập luận có tính cách triết lý, lịch sử và khoa học.

Đó là một thể giới hoàn toàn

   - đặt tin tưởng của mình vào lý trí, được coi như " thần tượng "

   - và vào tự do tư tưởng  và tự do lương tâm, như là ngọn cờ biểu hiệu chống lại " tín lý chủ nghĩa Roma " ( dogmatismo romano ).

Trưóc thái độ không có gì thân thiện đó, Giáo Hội phản ứng bằng cách đóng kín lại quanh mình và đoạn giao với thế giới bên ngoài.

Bối cảnh công giáo lúc đó là bối cảnh đang bị bao trùm bởi một bầu không khí của " một thành phố bị bao vây ", cộng đồng Ki Tô giáo là " một pháo đài đóng kín ".

Chúng ta chỉ cần nhắc lại các " vạ tuyệt thông " của Đức Giáo Hoàng Gregorio XVI

   - chống lại " tự do báo chí tệ hại nhứt cũng như chưa bao giờ ghê tởm đủ và nôn mửa đủ "

   - và chống lại " tư tưởng vô lý và sai lầm, hay đúng hơn là cơn hôn mê ( deliberamentum), đứng  ra nhìn nhận và bảo đảm cho mỗi người có tự do lương tâm " ( ĐTC Gregorio XVI, Mirari vos ( 1832), in Tutte le encicliche dei sommi Pontefici raccolte e annotate da E. Momigliano, Dall'Oglio, Milano 1959m 192).

Các vạ tuyệt thông đó, đúng lý hay không, cũng là những biểu tượng cho thấy mối liên hệ rách nát giũa Giáo hội và thế giới tân tiến lúc đó.

   - " Cần phải lên án, tài liệu của ĐTC Pio IX, bất cứ ai cho rằng Giáo Hoàng Roma ( = Giáo Hội ) có thể và phải hoà hợp lại với tân tiến chủ nghĩa ( modernismo) , với tự do chủ nghĩa ( liberalismo) và với văn minh hiện đại " ( ĐTC Pio IX, Sillabo, prop. n. 80, in Denz. Humer, 2980).   

Cơ hội để phá vở đi tình trạng bị vây hảm và bất thông thương nầy, đó là " vấn đề xã hội ", được nổi lớn lên nhân dịp " cách mạng kỷ nghệ ". 

Vào cuối thế kỷ XIX, " vấn đề xã hội " được hiểu đồng nghĩa với " vấn đề lương bổng công nhân ". Biến cố kỷ nghệ hoá, được thực hiện bằng việc hội nhập máy móc vào chu kỳ sản xuất tạo ra tình trạng thảm đạm vô nhân đạo đối với giới vô sản, bị bỏ rơi mặc kệ họ và cho túi tham không đáy của giới tư bản: đông đảo nam nữ công nhân và thợ thuyền, kể cả trẻ vị thành niên bị bắt buộc phải bán sức lao động để sống còn - không có được một sự bảo đảm nào của cơ chế quốc gia. Việc làm bị coi là một món hàng, như bất cứ hàng hoá nào khác, với đồng lương chết đói với mức  đê tiện hoá con người và bốc lột không thể nói được.

Như vậy " vấn đề công nhân " trở thành cơn thử thách, trong đó đối đầu nhau hai ý thức hệ quan trọng của thế kỷ 18: tự do chủ nghĩa ( liberalismo ) và mác xít chủ nghĩa ( marxismo).

Đó là hai nhãn quang toàn diện ( visioni globali ) và toàn trị ( totalizzanti) về cuộc sống con người, xã hội và lịch sử. Đối đầu nhau và không thể nào kết hợp hoà giải với nhau được. Đó là hai loại triết lý đối đầu và chiến đấu tiêu diệt nhau. Cả hai đều thoát xuất từ chính nền văn hoá duy vật của thế giới tiến bộ lúc đó.

   1 - Nảy sinh Huấn Dụ Xã Hôi của Giáo Hội.

Trước nguy cơ xã hội kỷ nghệ mới vừa chớm nở có thể bị thống trị bởi duy vật chủ nghĩa, Giáo Hội cảm thấy mình có cách hiện diện mới trong xã hội con người.

Tuy vậy, Thông Điệp Rerum Novarum không phải đột nhiên được viết ra. Trong Thông Điệp " về vấn đề công nhân " của mình, Đức Thánh Cha Leo XIII thu nhận kết quả chín mùi hơn của một lương tâm xã hội mới. mà một thời gian qua đã được xác nhận khắp đó đây trong Giáo Hội.

Chúng ta không sao qưên được những khuôn mặt cao qúy của các Giám Mục, như von Ketteler ở Đức, Manning ở Anh, Gibbona ở Mỹ, Mermillod ờ Thụy Sĩ, Bonomelli ở Ý. Đồng thời cũng có nhiều tín hữu giáo dân gia nhập trận chiến, đó là những người tích cực dấn thân vào các động tác xã hội, như von Vogelang ở Áo, La Tour du Pin  và L, Harmel ở Pháp, hoặc là vào các việc nghiên cứu khoa học trong các Trung Tâm Nghiên Cứu, như Hiệp Hội Nghiên Cứu ở Fribourg và Liège Thụy Sĩ  và Hiệp Hội Nghiên Cứu ở Ý Quốc.

Như vậy đứng trước duy vật triết lý của tự do chủ nghĩa và mác xít chủ nghĩa, Giáo Hội không còn ngần ngại chần chờ và xác nhận lại vị trí thượng đẳng của nền triết học Ki Tô giáo.

Đây thật là một ý thức hệ công giáo đích thực và chính đáng xuất hiện để đương đầu lại ý thức hệ tự do chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. 

Ngày nay  đề đọc lại Thông Điệp Rerum Novarum chúng ta có thể lấy làm lạ là tại sao để giải quyết   " vấn đề công nhân ", Thông Điệp chỉ đưa ra những nguyên lý triết học và luân lý dưới nhãn quang Ki Tô giáo về xã hội.

Tuy nhiên chúng ta cần lưu ý là toàn diện tư cưởng công giáo, liền trước và sau Thông Điệp Rerum Novarum, đều mang dấu chứng là đặt nặng vấn đề suy tư triết học và luân lý.

Chính Đức Thánh Cha Leo XIII đã mang theo mình vào triều đại giáo hoàng điều lo lắng tiên phuông về giá trị chủ thuyết, sau khi đã thu nhận được từ các vị thầy như Cha M. Lieratore và ĐHY T.M. Zigliara. Những năm trước đó Cha Taparelli d'Azeglio với bài xã luận Saggio teorico di diritto naturale appogiato sul fatto ( 1843), đã khởi đầu trước một " phong trào về nguồn ", trở lại các " nguyên tắc bất di dịch " của luật tự nhiên, như là phản ứng chống lại tiến trình thế tục hoá của tư tưởng tân tiến lúc đó, chỉ muốn hạn hẹp các nguyên tắc luân lý vào lãnh vực lương tâm riêng tư của mỗi cá nhân. 

Nhưng thái độ chọn lựa " về nguồn ", trở lại nền tảng giáo lý tư tưởng xã hội Ki Tô giáo cũng mang một khía cạnh tiêu cực: đó là không đánh giá đủ giá trị các việc thăm dò định chuẩn xã hội học và những kết quả các khoa học nhân văn tích cực.

Với trào lưu của việc tái phát sinh nền triết học bất diệt ( tân kinh viện, neo-scolastique), quan niệm cổ về các mối liên quan trong xã hội là những gì thuộc về lãnh vực riêng tư được tái phát sinh.

Bởi đó nhiều người công giáo xác tín rằng triết học bất diệt Ki tô giáo một khi được thiết lập lại, sẽ có thừa khả năng để giải quyết tận gốc rễ "vấn đề xã hội " , ngay cả trong các lãnh vực kinh tế và kỷ thuật ( M. Liberatore, Principi di economia politica ( 1889).

Những gì vừa kể có thể giải thích được tại sao Thông Điệp Rerum Novarum đặt nặng vấn đề giáo lý ( dottrinale) là nguyên tắc để giải đáp cho các thách thức của các " vấn đề công nhân " 

Dĩ nhiên trong Thông Điệp cũng không hiếu việc đề cập đến hiện trạng lịch sử hiện thực, nhưng điều vừa kể chỉ xảy ra một đôi khi.

Mấu chốt can thiệp của Thông Điệp của việc đặt nặng " vấn đề công nhân " là vấn đề có đặc tính chính yếu trong lãnh vực triết học và luân lý.

Bởi đó Đức Thánh Cha Leo XIII tuyên bố trong các lời dẫn nhập của Thông Điệp Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội dưới dạng thức là một bản văn được trình bày một cách mạch lạc và có hệ thống, bằng cách diễn dịch từ những nguyên tắc bất di dịch của " quyền tự nhiên " và của mạc khải Ki Tô giáo.

Trên thực tế, Thông Điệp Rerum Novarum không có gì hơn là ý thức hệ công giáo, được viết ra nhằm phản đối lại tự do chủ nghĩa và mác xít chủ nghĩa. 

   2 - Chống lại mác xít chủ nghĩa và tự do chủ nghĩa.

Khai triển tiên khởi Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội, trong nội dung của Thông Điệp Rerum Novarum, được phát sinh nhằm đương đầu và chống lại xã hội chủ nghĩa ( socialismo) và tự do chủ nghĩa ( liberalismo).

Việc chạm trán giữa Giáo Hội và mác xít chủ nghĩa đã khởi đầu từ khá lâu trước đó, cả trước khi Manifesto ( Tuyên Ngôn ) mác xít được phổ biến ( 1848).

Đức Thánh Cha Pio IX, trongThông Điệp Qui Pluribus đã lên án chủ thuyết đó như là

   - " tai họa cái gọi là cộng sản chủ nghĩa " ( ĐTC Pio IX,Qui Pluribus ( 09.11.1846), in Denz. - Huener, 2786).

Đó là năm 1846, cùng năm mà K. Mark viết lên

   - " Tình thương Ki Tô giáo không có khả năng biến đổi thế giới, không cung ứng được cho nghị lực cần thiết để cải tổ xã hội. Tình thương Ki Tô giáo chỉ có khả năng diễn tả tâm tình, là những gì không thể phá vở đi được các mối tương quan thực hữu; ru ngủ con người bằng một bát cháo ấm áp tình càm. Trong khi cần phải trả lại cho con người nghị lực " ( cit. by P. Bartolomeo Sorge, Introduzione alla Dottrina Sociale della Chiesa, id., 35).  

Một vài năm sau khi bản Tuyên Cáo ( Manifesto ) mác xít ra đời, năm 1864, ĐTC Pio IX còn lên tiếng kết án

   - " cộng sản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa là những điều tai hoạ thảm đạm nhứt " ( ĐTC Pio IX, Quanta Cura, n. 5, ( IG).   

Đức Thánh Cha Leo XIII, trong Thông Điệp Rerum Novarum, không chỉ giới hạn vào việc lên án, mà còn giải thích những lý do giáo lý của Giáo Hội, bằng cách chống đối ý thức hệ xã hội chủ nghĩa có ý đồ

   - loại bỏ đi quyền tư hữu

   - và biến quyền tư hữu thành sở hữu tập thể.

Đó không phải là phương thức giải quyết " vấn đề nhân công ". Làm như vậy - ĐTC xác nhận rõ - chỉ đạt được kết quả là

   - " làm cho tình trạng người công nhân càng trở nên trầm trọng hơn, bằng cách tước bỏ đi quyền tự do xử dụng lương bổng của mình và như vậy cất bỏ đi khỏi họ mọi hy vọng và mọi khả năng có thể tăng thêm gia tài của mình và làm cho tình trạng mình trở nên khả quan hơn " ( ĐTC Leo XIII, Rerum Novarum ( 15.05.1891), n.43, in CERAS, 28.).  

Ngày nay, sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ, không ai có thể chối bỏ được thực trạng thảm đạm lời phán quyết  của Thông Điệp một trăm năm trước đó.

Tước bỏ đi quyền tư hữu không giải quyết được gì " vấn đề công nhân ", trái lại đó là cách hành xử làm phát sinh ra " chủ nghĩa tư bản Quốc Gia " ( capitalismo di Stato ), làm tái sinh hình thức nghèo khổ còn thảm đạm hơn nữa, nô lệ hoá hơn nữa và đê tiện hoá hơn nữa các khối vô sản, bần cố nông, mà K. Mark muốn giải quyết " một cách khoa học ".

Đó là lý do tại sao, Thông Điệp Rerum Novarum giải thích: đó là những gì bản tính thuộc lãnh vực luân lý và nguyên tắc.

Thật vậy, bởi vì quyền tư hữu tự bản thể là một quyền tự nhiên. Bởi đó, tước bỏ đi là điều bất công và từ đó, dĩ nhiên, phải đưa đến việc xáo trộn cả trật tự xã hội.

Trái lại phương thức giải quyết thực tiển các vấn vô sản rất trầm trọng cần phải được tìm ra trong

   - phổ biến rộng rãi hơn quyền tư hữu giữa các công nhân,

   - làm thể nào để san bằng được khoản cách giữa đại đa số người nghèo tuyệt vọng và mức giàu có không lồ trong tay một ít chủ nhân ông.  

Sau khi bác bỏ xã hội chủ nghĩa trên chính bình diện nguyên tắc tổng quát của nền triết học xã hội Ki tô giáo, Thông Điệp Rerum Novarum xoay qua chạm trán với ý thức hệ tự do chủ nghĩa cũng trên cùng một bình diện.

Thông Điệp không nêu đích danh " tự do chủ nghĩa ", nhưng phá bỏ đi các tiền định giả thiết ( presupposti) triết học và luân lý của học thuyết đó, bằng cách đưa ra những đường nét chính của Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội, nền tảng của ý thức hệ công giáo. 

   3 - Các nguyên tắc của ý thức hệ công giáo.

    a) Nguyên tắc thứ nhứt dẫn đầu cho mọi duyệt xét suy tư khác đó là phẩm giá con người và từ đó là việc làm của con người.

Người giàu và các chủ nhân - ĐTC Leo XIII nói -

   - " không được đối xử với nhân công như là nô lệ, phải kính trọng phẩm giá con người nơi người công nhân ( ...).Dưới cặp mắt của lý trí và đức tin, việc làm không đê tiện hoá con người, trái lại làm cho con người trở nên cao qúy hơn ( ...). Điều không xứng đáng đối với con người, đó là dùng con người như là dụng cụ để sinh lợi lộc, coi con người có giá trị tùy theo năng lực sức lực thân xác của anh ta " ( ĐTC Leo XIII, Rerum Novarum, n. 16,4, id.).

   b) Nguyên tắc thứ hai, đó là kinh tế có tầm vóc luân lý của mình, chính trong đó mà kinh tế được định hướng nhằm phục vụ con người.

Đây cũng là nguyên tắc đứng ra công khai chống lại ý thức hệ tự do chủ nghĩa. Bởi lẽ tự do chủ nghĩa luôn luôn chủ xướng rằng tiến trình kinh tế không có gì liên hệ đến quan niệm luân lý. Bởi lẽ kinh tế chỉ theo lề luật cứng rắn của thị trường, chớ không có gì phải quan tâm  đối với quan niệm " công bình " hay    " bất công ".  

Một cách cá biệt, ĐTC Leo XIII nhấn mạnh đến mức lương bổng phải chính đáng:

   - " Ước gì chủ nhân và công nhân thoả thuận được giao kèo với nhau và, một cách cá biệt, thiết lập được với nhau mức lương bổng. Nhưng tất cả những điều đó không loại bỏ đi cần phải có luật lệ công bằng thiên nhiên ở bên trên ý chí tự do của hai bên ký thoả ước giao kèo và mức lương bổng không thể nào dưới mức cho phép người công nhân đơn sơ và liêm chính có thể sống được. Nếu người công nhân, bị bắt buộc vì nhu cầu hay vì sợ phải tệ hại hơn, chấp nhận các điều kiện khắc khổ hơn, đàng khác vì không thể nào có thể khước từ được, bởi vì đó là các điều kiện mà chủ nhân hay người cung cấp việc cho áp đặt, người công nhân đang bị bạo lực trấn áp, mà chống lại bạo lực đó công lý phản đối " ( ĐTC Leo XIII, Rerum Novarum, n. 34, 4, id.).

Nói một cách tổng quát, mục đích của kinh tế là con người, chớ không phải lợi nhuận. Con người không bao giờ có thể làm tôi tớ cho lợi nhuận.

   c) Nguyên tắc thứ ba , đó là cơ chế Quốc Gia phải can thiệp vào vấn đề xã hội và kinh tế, trợ giúp những ai đang có nhu cầu.

Lý do đó là

   - " bổn phận của Quốc Gia là phải chăm lo cho công ích " ( ĐTC Leo XIII, Rerum Novarum, n. 26, 2, id.).

Nhưng công ích không phải là tổng số của các lợi ích riêng tư - như rất tiếc đó là theo quan niệm của ý thức hệ tự do chủ nghĩa - và như vậy, mỗi người càng thành đạt đươc bao nhiêu lợi nhuận cho chính mình, anh ta càng góp công góp của nhiều hơn cho công đồng Quốc Gia.

Công ích vượt lên trên các lợi thú riêng tư và bảo đảm cho mọi người đều có quyền như nhau, bằng chính việc bảo đảm cho lợi ích chung.

Đó chính là lý do tại sao cơ chế Quốc Gia phải can thiêp trợ giúp kẻ yếu kém hơn. Thật vậy, Thông Điệp Rerum Novarum giải thích,

   - " hạng giàu có, tự mình là thành phần có thế lực, ít cần phải nhờ đến sự bênh vực của quyền lực công cộng. Hạng vô sản, bần cố nông, trái lại, thiếu phương tiện để sống còn, trông cậy nhứt là vào sự bảo vệ của cơ chế Quốc Gia. Như vậy, Quốc Gia hãy là người bênh vực một cách cá biệt đối với công nhân, là những người thuộc về hạng người nghèo khổ " ( ĐTC Leo XIII, Rerum Novarum, n. 29, 2 id.).  

Trong nhãn quang cơ chế Quốc Gia cần phải can thiệp vì lợi ích chung ( cho cả chủ nhân lẫn công nhân), Đức Thánh Cha Leo XIII đặt giải đáp trên bình diện giáo lý cả đối với những phương diện quan trọng khác của " vấn đề công nhân " : đó là tiên liệu cho quyền đình công, thời gian được nghỉ ngơi, công đoàn lao động

Nói tóm lại, Giáo Hội, dưới ánh sáng mạc khải và triết học Ki Tô giáo, trong khi phê phán mác xít chủ nghĩa và tự do chủ nghĩa, đi sâu cả đến một vài điểm thiết yếu, mà sau đó sẽ trở thành " quyền làm việc ".

ĐTC Leo XIII phát thảo ra các đường hướng nền tảng của một tổ chức có hệ thống Huấn Dụ Xã Hội Ki Tô giáo, mà ĐTC Pio XI không  ngần ngại coi đó là " Magna Charta " ( Đại Văn Bản ), trên đó đặt nền tảng cả hoạt dộng Ki Tô giáo trong lãnh vực xã hội ( ĐTC Pio XI, Quadragesimo anno ( 15.05.1891) , n. 42, in CERAS, 78).

( Để có tài liệu nghiên cứu sâu rộng hơn về những gì chúng ta đã ngắn gọn lượt tóm qua, Anh Em có thể tra cứu thêm Tổng Lượt Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội, " vấn đề công nhận ",( Compendio della Dottrina Sociale della Chiesa,  nn. 88. 89. 90 ).

Tác giả:  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!