NGUYỄN HỌC TẬP
B - Gia đình trong Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội.
Một trong những lãnh vực quan trọng khác của đời sống xã hội, mà chúng ta thấy Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội áp dụng rõ ràng nguyên tắc liên đới hỗ tương và phụ túc bảo trợ, đó là lãnh vực gia đình. Gia đình là
- " tế bào khởi thủy và quan trọng sống còn của đời sống xã hội " ( Actuositatem apostolicam, n. 11).
- " Gia đình có những mối liên hệ sống còn và cấu trúc với xã hội, bởi vì gia đình là nền tảng xã hội và tiếp tục nuôi dưỡng xã hội qua phận vụ phục vụ đời sống của mình: thật vậy, từ gia đình sinh sản ra các người công dân và trong gia đình các công dân có được mái trường tiên khởi về các đức tín xã hội, linh hồn của đời sống và của phát triển chính xã hội " ( Famiglia Cristiana, n. 42).
Như vậy gia đình là nơi chốn đặc biệt để phát huy xã hội tính của con người.
Các Đức Thánh Cha xác nhận rằng: gia đình được đặt nền tảng trên hôn nhân
- là xã hội tự nhiên, bởi vì gia đình có căn cội của mình thoát xuất từ xã hội tính của con người;
- là xã hội nguyên thủy, tức là tự tạo lấy mình, bởi vì gia đình được thành lập do các lý do tự lập, có nguyên cội của mình trong con người có ý định tạo ra một đời sống hiệp nhứt, dựa trên việc ban tặng hoàn toàn chính mình cho nhau;
- là một xã hội khởi thủy, bởi lẽ gia đình là thực thể khởi thủy của xã hội con người;
- là xã hội tiền quốc gia, bởi vì có trước Quốc Gia;
- là xã hội tối thượng, không phải vì gia đình có quyền năng vô hạn, mà bởi vì gia đình có chủ thể tính, thực thể, năng quyền họ tộc và cùng đích luân lý của chính mình " Toso Mario, " DCS e Famiglia ", in La Società, 2 8 2004), pp. 215-219).
Trong khuôn viên bài viết, chúng ta đặc tâm chú ý đến hai đặc tính cuối cùng,
- gia đình có trước, tự lập và tối thượng đối với Quốc Gia, và đối với các tổ chức xã hội khác, bởi vì gia đình được hiện hữu và có cùng đích được nhằm đến từ các chủ thể liên hệ, đứng ra tạo lập và là thành phần của gia đình.
Hiểu như vậy, Quốc Gia, dựa trên nguyên tắc phụ túc bảo trợ, phải nhận biết, bảo vệ và phát huy sự hiện hữu tự lập và động tác của gia đình. các quyền và bổn phận của gia đình.
Quốc Gia không nên hấp thụ làm tan biến gia đình trong các cơ cấu của mình hay thay thế cho gia đình, loại bỏ gia đình khỏi những phận vụ của mình, bằng cách truất hữu đi trách nhiệm và đối đãi với gia đình theo phương thức cứu tế xã hội . Đúng hơn là phải giúp đỡ trợ lực các gia đình ( Centesimus annus, n. 49).
Quốc Gia nên trợ lực gia đình trong lúc tạm thời gia đình không có khả năng , hoàn hảo hóa và nâng đỡ để cho gia đình có thể đáp ứng lại sứ mạng của mình ( ĐTC Gioan Phaolồ II, Lettere alle famiglie , n. 17).
Thông Điệp Familiaris consortio liệt kê một bản dài các quyền của chính gia đình, chắc chắn ai cũng có thể tra cứu được, để tránh cho bài viết quá dài, chúng tôi chỉ xin đặc tâm lưu ý đến quyền quan trọng sau đây:
- " quyền được huấn dạy con cái theo truyền thống và các giá trị tôn giáo, văn hoá, với các dụng cụ, phương tiện và cơ cấu tổ chức cần thiết " ( Familiaris consortio, n. 46).
Quyền vừa kể, và đó cũng là bổn phận, là quyền thiết yếu, khởi thủy, không ai có thể thay thế được và bất khả nhượng ( Familiaris consortio, n. 36).
Tuy nhiên, mặc dầu cha mẹ là những người huấn dạy đầu tiên và không thể thay thế đối với con cái, họ không phải là những người duy nhứt , bởi lẽ Quốc Gia và những tổ chức xã hội trung gian khác, cộng đồng tôn giáo chẳng hạn, vì mục đich nhằm đến, các tổ chức đó cũng có phận vụ giáo dục.
Nhưng cha mẹ, với tư cách là những người có trách nhiệm trước tiên, có quyền chọn nơi chốn và phương thức giáo dục , đáp ứng lại những xác tin luân lý và tôn giáo của mình, cũng như có quyền thiết lập và trợ lực các tổ chức giáo dục.
Vế phiá Quốc Gia, Quốc Gia có bổn phận bảo đảm các quyền vừa kể và tạo lập ra các điều kiện thiết thực để có thể thực hiện được các quyền đó ( Catechismo della Chiesa Cattolica, n. 2229).
Hiểu như vậy, dựa trên nguyên tắc liên đới hỗ tương và phụ túc bảo trợ, Quốc Gia có bổn phận không những nhân nhượng, mà còn trợ lực về phương diện kinh tế, để thiêt lập cơ sở trường ốc tư thục, khi họ cần đến, bởi lẽ mục đích là nhằm triển nở hoàn hảo cho giới trẻ, là những công dân trong tương lai ( LC, n. 94).
Bởi đó chúng ta có thể xác quyết rằng, khi nào Quốc Gia cho rằng mình có độc quyền giáo dục, là vượt qua những gì thuộc lãnh vực của Quốc Gia và vi phạm đến công lý ( Gaudium et spes, n. 52).
Dĩ nhiên phận vụ xã hội của gia đình không chỉ gồm tóm ở việc sinh sản và giáo dục:
- " Các gia đình, đứng riêng rẽ hay gia nhập vào hiệp hội, có thể và phải chăm lo vào nhiều công tác phục vụ xã hội, nhứt là giúp đỡ cho những ai nghèo khổ, và dầu sao đi nữa chăm lo đến các con người và các tình trạng mà tổ chức tiên liệu và phụ cấp công quyền không có khả năng đạt được " ( Famiglia Christiana, n. 44).
Ở đây chúng ta thấy được liên đới hỗ tương và phụ túc bảo trợ đươn kết chặt chẽ với nhau.
Các gia đình được mời gọi đươn kết nhau thành môt mạng lưới liên đới hỗ tương, để đáp ứng lại ngoài ra các nhu cầu của cá nhân, còn có các nhu cầu của gia đình, của khu phố, trường học, bệnh xá và tất cả các thực tại địa phương khác, có liên hệ với mình.
Với hình thức đó, tình liên đới hỗ tương được thực hiện bởi các gia đình, có tính cách uyển chuyển và hữu hiệu hơn những gì co cơ cấu Quốc Gia cung cấp, bởi vì gia đình là chủ thể xã hội ở sát gần các cá nhân con người và các nhu cầu của họ hơn.
Nói cách khác tổ chức Quốc Gia không thể nghĩ rằng mình có thể giải quyết thoả đáng tất cả mọi vấn đề, có khả năng giải quyết thoả đáng được đều khắp đến cả xóm làng, địa phương, khu phố tất cả các nhu cầu của mỗi cá nhân, nếu không qua trung gian của gia đình. Và chính nguyên tắc phụ túc bảo trợ là điều cần thiết đứng ra bênh vực sự trung gian đặc biệt không thể thiếu đó.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II cho biết
- " phận vụ xã hội của gia đình cũng được mời gọi thể hiện dưới hình thức can thiệp vào chính trị: điều đó có nghĩa là gia đình là chủ thể đầu tiên phải tác động để cho luật lệ và cơ chế Quốc Gia không những không xúc phạm, mà còn trợ giúp và tích cực bênh vực các quyền và bổn phận của gia đình " ( Famiglia Cristiana, n. 44).
Về phía mình, Quốc Gia phải nhận biết gia đình là
- " một tổ chức xã hội có quyền được hưởng quyền chính đáng của chính mình và tiên khởi " ( Dignitas hominis, n. 5).
và bởi đó trong các mối liên hệ với gia đình, Quốc Gia có bổn phận phải tuân giữ nguyên tắc liên đới hỗ tương:
- " Trong uy thế của nguyên tắc vừa kể, Quốc Gia không thể, cũng không được tước bỏ khỏi gia đình những phận vụ mà gia đình tự mình có thể chu toàn được hoặc bằng cách tự do liên hiệp với những gia đình khác, trái lại Quốc Gia phải tích cực dành mọi dễ dàng và khuyến khích tối đa sáng kiến có trách nhiệm của các gia đình. Xác tín rằng những gì tốt đẹp của gia đình cấu tạo nên giá trị thiết yếu và bất khả nhượng cho cộng đồng dân sự, các cơ quan công quyền phải làm hết sức có thể để bảo đảm cho các gia đình tất cả những sự trợ giúp knh tế, xã hội, giáo dục, văn hoá, mà gia đình cần có để chu toàn các trách nhiệm của mình, theo phương thức xứng đáng với phẩm giá con người " ( Famiglia cristiana, n. 45).
Như vậy trong Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội, có một quan niệm chính trị mà không thể chỉ gồm tóm tất cả trong các chính đảng, chính quyền và quốc hội:
- " Giữa cá nhân con người và xã hội chính trị, quốc gia và quốc tế, cần phải có các hiện thể chính trị - tham dự sống động và đầy nghị lực...như là tổ chức nối kết của đường lối chính trị đều khắp, được sống một cách có trách nhiệm và tích cực bởi những chủ thể tự nhiên trong lòng quốc gia...Gia đình, trong nội trạng đa chủ thể chính trị đó, cũng phải đảm lấy trách nhiệm của mình và hành xử sứ mạng chính trị mà các chủ thể khác không thể thực hiện được " ( Toso Mario, " Solidarietà e sussidiarietà nell'insegnamento sociale della Chiesa", cit., 546).
Kết luận.
Lần buớc theo những văn kiện lịch sử, nền tảng thần học và nhân bản luận trong các lần viết vừa qua, chúng ta có thể khẳng định rằng các nguyên tắc liên đới hỗ tương và phụ túc bảo trợ không những là nền tảng các Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội, mà còn là hai nguyên tắc liên hệ bổ túc chặt chẻ cho nhau.
Những ảnh huởng tương quan mà chúng ta đã có dịp duyệt qua, cho phép chúng ta xác định hai nguyên tắc vừa kể như là hai mặt của một huy chương.
Nguyên tắc phụ túc bảo trợ có thể được định nghĩa như là thuốc khử độc chống lại thái độ tập quyền, tập thể hóa, độc quyền hoá, toàn trị hoá.
Chúng ta thử nghĩ đến một xã hội được tổ chức có liên hệ, trong đó mỗi từng lớp hành xử phận vụ không thể thay thế của mình và được các cơ chế ở cấp bậc cao hơn trợ lực để có thể thi hành.
Tuy vậy, chúng ta không nên xem nguyên tắc vừa kể như là những gì tách biệt khỏi nguyên tắc kia, nguyên tắc liên đới hỗ tương, nếu không áp dụng, có nguy cơ đặt nặng quá vào cá nhân chủ nghĩa, phân chia xóa nát xã hội và mỗi con người hay mỗi tổ chức tự đóng kín thành những khu vực nhỏ bé.
Lý do tại sao bên cạnh phụ túc bảo trợ cần phải có liên đới hỗ tương, chúng ta có thể quy hướng về con người.
Thật vậy, nếu mỗi người chúng ta đều khác nhau, nhưng chúng ta đều đồng đẳng như nhau, ví tất cả chúng ta đều là con người.
Mỗi người chúng ta đều có phẩm giá như nhau, các quyền bất khả xâm phạm như nhau và có bổn phận như nhau trong xã hội.
Nguyên tắc phụ túc bảo trợ chuẩn định giá trị sự giàu có của sự khác biệt, liên đới hỗ tương đặc tâm lưu ý đến giá trị của phẩm giá và quyền bình đẳng.
Hiểu như vậy, điều hiển nhiên là các tổ chức xã hội ở bậc cao hơn - trong ý nghĩa chúng ta đề cập đến trong các lần viết của chủ đề đang bàn - phải định chuẩn giá trị của tự do và tự lập của các cá nhân và tổ chức xã hội ở cấp bậc thấp hơn, nhưng vẫn luôn luôn trong trong bối cảnh bình đẳng, liên đới hỗ tương và bảo toàn công ích.
Nếu không, các tổ chức ở bậc cao hơn dành đặc quyền và coi trọng luật lệ của cá nhân uy quyền hay của nhóm mạnh hơn. Giữa bao nhiêu ví dụ, chúng ta đã thấy được trong lãnh vực làm việc và gia đình.
Nguyên tắc phụ túc bảo trợ muốn rằng cơ chế Quốc Gia không thay thế các cá nhân đơn độc cũng như các hiệp hội, tổ chức xã họi trung gian, trong việc tôn trọng phẩm giá của họ.
Nhưng nguyên tắc liên đới hỗ trợ đòi buộc Quốc Gia không được bỏ bê việc làm và gia đình để cho tư bản chủ nghĩa bốc lột tùy hỷ hay khoán trắng cho cá nhân chủ nghĩa man rợ.
Quốc Gia phải đứng ra bảo vệ quyền của các công nhân và gia đình yếu thế, bằng cách định chế động tác làm việc và đời sống gia đình trong khuôn viên luật pháp về quyền và bổn phận.
Nói cho cùng nguyên tắc liên đới hỗ tương đòi buộc cơ chế Quốc Giă phải can thiệp vì công ích.
Với lằn mức nào?
Với định điểm quân bình nào ?
Mỗi lần cần quyết định can thiệp, hành xử cơ chế Quốc Gia phải tìm lằn mức và định điểm quân bình đó, khởi đầu từ tự do của con người, và luôn luôn dựa trên hai nguyên tắc được đề cập của Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội, làm thế nào trong quyết định cả hai nguyên tắc phải hoà hợp với nhau.
Hai nguyên tắc vừa kể, như chúng ta đã thấy trong những phần được viết trước, không đối nghịch nhau mà bổ túc cho nhau, nguyên tắc nầy không thể thiếu nguyên tắc kia trong khi áp dụng, nếu muốn đó là áp dụng chính đáng.
Thật vậy, nếu phải chuẩn định giá trị của cá nhân con người và của các tổ chức xã hội ở cấp bậc thấp hơn, đó là để cho cá nhân cũng như các tổ chức đang bàn có thể góp phần trợ lực tốt đẹp hơn vào công ích, nghĩa là để cho cá nhân và các tổ chức thể hiện được tốt đẹp hơn tình liên đới hỗ tương, chớ không phải để cho họ " tách riêng, đóng khung, tự lập " nhằm tthực hiện mục đích hoàn toàn cá nhân và riêng tư phe nhóm.
Như vậy, khi cơ quan công quyền can thiệp là can thiệp để thiết lập lại quyền bình đẳng, khiến cho tất cả đều là nhân vật chính, chớ không phải chỉ một vài người, một vài nhóm có đặc quyền.
Phụ túc bảo trợ là nguyên tắc trợ lực cho liên đới hỗ tương và ngược lại.