NGUYỄN HỌC TẬP
III - Nền tảng của liên đới hỗ tương và phụ túc bảo trợ.
B - Nền tảng của phụ túc bảo trợ.
Một định luật nền tảng luôn luôn được tôn trọng trong đời sống Chúa Ba Ngôi là " mỗi Ngôi sống cho chính mình nhờ Ngôi khác ".
Đặc tính đó huớng dẫn chúng ta bênh vực nguyên tắc phụ túc bảo trợ là điều cần thiết.
Nhưng còn một đặc tính phụ túc khác được đặt làm nền tảng cho nguyên tắc phụ túc bảo trợ: " mỗi Ngôi phải hoàn hảo hết sức có thể như là thực thể của mình đòi buộc, như vậy các Ngôi khác cũng trở nên trọn hảo " ( Cambón Enrique, Trinità : modello sociale , Città Nuova, Roma 1999, 96).
Như vậy, mỗi người càng được kính trọng trong phẩm giá của mình, càng có khả năng thực hiện triển nở hoàn hảo chính mình, bởi vì con người đó được đặt trong các điều kiện để có thể thể hiện ra chính mình. Và con người càng được kính trọng phầm giá của mình, càng có khả năng cộng tác vào lợi ích của xã hội trong đó mình đang sống.
Theo tư tưởng vừa kể, chúng ta có thể nói rằng Chúa Giêsu Ki Tô , trong cuộc sống trần thế của người giữa con người, Người càng thể hiện được hoàn hảo thực thể của Người, là Chúa Con, Người càng làm cho chúng ta trỏ nên con cái của Chúa hơn. Và Chúa Giêsu đã thể hiện Người là Chúa Con hoàn hảo trên thập giá, khi Người khước từ chính mình, vì tình yêu thương, Người đã thực hiện thánh ý Chúa Cha và đã ban cho chúng ta đời sống Thiên Chúa của Người.
Trong đồ án nguyên thủy, Chúa Cha đã dựng nên chúng ta để trở thành con cái của Người trong Chúa Ki Tô. Nhưng cuộc sa ngã của nguyên tội đã cản trở đồ án đó được thực hiện.
Từ đó Chúa Con, với sứ mạng trần thế của Người, khởi đầu bằng cuộc nhập thể và kết thúc với biến cố phục sinh, đã đem đến cho con người " phụ túc bảo trợ " ( sussidium) cần thiết để tìm lại được phẩm giá con cái và có khả năng ăn ở xứng đáng với địa vị đó.
" Phụ túc bảo trợ " ( sussidium ) đó, sau Lễ Hiện Xuống, vẫn còn được ban cho con người trong Giáo Hội,nhờ động tác của Chúa Thánh Linh, không phải cho là áp đặt lên con người, mà là đề nghị cho con người, như trong dụ ngôn người cha nhân lành ( Lc 15, 11-32).
Chỉ có ai bám víu với tội lỗi, khước từ địa vị của mình, đến nỗi vẫn tiếp tục chung sống với đàn heo ( Lc 15, 15) và ăn uống thức ăn của chúng.
Phảm giá con Thiên Chúa của con người vẫn thuộc về con người, không ai có thể tước bỏ đi được.
Bởi đó, với sự kính trọng phẩm giá đó, Thiên Chúa, về quyết định thực hiện điều tốt đẹp cho con người, không can thiệp bằng cách thay thế con người để hành động, mà bằng cách " phụ túc bảo trợ " (sussidium, giúp đỡ, trợ lực) con người.
Thật vậy, trong cả lịch sử cứu rổi, chúng ta có thể thấy được rằng Thiên Chúa đã can thiệp giúp đỡ nhân loại , bằng cách đặt nhân loại trong những điều kiện có thể tự đôi chân của mình đến được miền đất hứa, qua việc tiếp tục giúp đỡ trợ lực của Người, mà thượng đẳng của tác động trợ lực giúp đỡ đó là ban tặng cả Con của mình cho nhân loại.
1 ) Chúa Giêsu và các môn đệ.
Như Phúc Âm thuật lại cho chúng ta, trong đời sống xã hội của Chúa Giêsu, chúng ta có thể nhận thức ra được phương thức liên đới của người với người khác, trong nhãn quang của đề tài đang viết, chúng ta đặc tâm chú ý vào việc hành xử " uy quyền " của Người:
- " Khi Chúa Giêsu giảng dạy những điều ấy xong, dân chúng sững sốt về lời giảng dạy của Người, vì Nguời giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư của họ " ( Mt 7, 28-29).
- " Thiên hạ sững sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư " ( Mc 1, 22).
- " Người xuống Capharnaum, một thành miền Galilea, và ngày sabat, Người giảng dạy dân chúng. Họ sững sốt về cách Người diảng dạy, vì lời của Người có uy quyền...Mọi người rất đỗi ngạc nhiên và nói với nhau: Lời ấy là thế nảo? Ông ấy lấy uy quyền và thế lực mà ra lệnh cho các thần ô uế và chúng phải xuất " ( Lc 4, 31.36).
Chúa Giêsu là " Vị Thầy " và " là Chúa " ( Jn 13, 13), không thể hiện ra " quyền lực " của mình áp đặt lên các môn đệ, nhưng chính Người hành xử quyền lực đó bằng cách tôn trọng phẩm giá của các môn đệ, khuyến khích các ngài tự do, tự lập và tích cực cộng tác vào việc cứu rổi chính các vị và cứu rổi người khác.
Môt người cha tuyệt vọng vì bệnh tật của đứa con, đến xin Chúa Giêsu can thiệp cứu chữa con mình, sau khi các môn đệ đã cố sức gắng công vô ích ( Mc 9, 14-29):
- " Nhưng nếu Thầy có thể làm được gì, thì xin động lòng thương mà giúp chúng tôi " ( Mc 9, 22).
Người cha tuyệt vọng đó không còn biết cậy vào ai, sau khi các môn đệ cũng không thành công giúp đỡ ông, liền kỳ vọng vào Chúa Giêsu, nhưng bằng một lời van xin không phải cách, trúc hết việc giải quyết vấn đề của mình cho chúa Giêsu.
Bởi đó Chúa Giêsu trả lời bằng cách nhắc nhở ông phải tích cực tham dự vào việc giải quyết, chữa lành cho con mình, bằng câu nói:
- " Sao lại nói: " Nếu thầy có thể? Mọi sự đều có thể đối với những ai tin " ( Mc 9, 23).
Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, liên đới với chúng ta, và chắc chắn muốn cứu rổi chúng ta, nhưng không bao giờ không có chúng ta, không có sự cộng tác của chúng ta, cộng tác " tích cực " trong đức tin.
Lúc đó, người cha đã được Chúa Giêsu đánh động để đảm lấy trách nhiệm của mình, trở nên tích cực trong đức tin và van xin sự " phụ túc bảo trợ " ( subsidium ) của Chúa Giêsu:
- " Con tin, nhưng xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của con " ( Mc 9, 24).
Câu nói vừa kể tổng hợp một cách rõ rệt và chính xác nguyên tắc phụ túc bảo trợ. " Con tin ", nói lên những gì là bổn phận phải có của con người, nhưng trong trường hợp gặp khó khăn, " lòng tin yếu kém của con " cho thấy con cần được gíúp đỡ, đấng bậc có quyền lực, khả năng cao hơn, xin tiếp cứu cung cấp cho những gì cần thiết để cho người yếu thể, chủ thể yếu thế thấp kém hơn có đủ năng lực để thực hành, chớ không phải cung cấp, trợ lực là thay thế, bởi đó ông không xin " xin Thầy tin giùm con ", làm thay cho con.
Cả đối với các môn đệ, trong biến cố vừa kể, được Chúa Giêsu khuyến khích hãy tăng trưởng, lớn lên trong đức tin, trong lời cầu nguyện và trong ăn chay hảm mình, như Người đã thực hiện trên sa mạc trước đó và như vậy tham dự tích cực vào sứ mạng mà Chúa Giêsu đã giao phó cho các ông:
- " Ôi thế hệ cứng lòng, không chịu tin! Ta phải ở cùng các người cho đến bao giờ, còn phải chịu đựng các người cho đến bao giờ nữa ? " ( Mc 9, 19).
Chúa Giêsu không muốn tự mình làm hết mọi chuyện, bởi vì Người muốn, trong ý thức tôn trọng tinh thần của công cuộc sáng tạo, con người tham dự vào tiến trình sáng tạo và tái sáng tạo của Thiên Chúa. Bởi lẽ con người có phẩm giá độc nhứt và bất khả nhượng mà không có một tạo vật nào khác có được.
Bởi đó trong sứ mạng trần thế của Người, Người kêu gọi một vài người giữa các môn đệ thành " những kẻ đánh lưới người " ( Mt 4, 18-22; Mc 1, 16-20; Lc 5, 1-11),
Như vậy Người nhận biết giá trị của việc góp công sức của người tín hữu Chúa Ki Tô vào việc tìm kiếm và thực hiện điều tốt lành cho những ai đang chìm đắm trong sự ác ( Fausti Silvano, Una comunità legge il vangelo di Matteo; EDB, Bologna 2001, 2° ed., p. 58).
Trong biến cố hoá bánh ra nhiều ( Mt 14, 13-21, Mc 6, 33-44; Lc 9, 12-17; Jn 6, 1-13) những gì vừa kể, chúng ta càng thấy nổi bậc hơn.
- " Chúa Giêsu trông thấy đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt " ( Mc 6, 34).
Và " Người bắt đầu dạy họ nhiều điều " ( Mc 6, 34b).
Các môn đệ cũng tham dự một cách tích cực, theo khả năng của mình, trong động tác liên đới hỗ tương nầy đối với đoàn lủ dân chúng đang mất định hướng và đói khát Lời Chúa.
Vì trời đã xế chiều, nên các môn đệ ở nơi hoang dã đó một mình, " xin Thầy cho dân chúng về...để họ vào thôn xóm và làng mạc chung quanh mà mua gì ăn " ( Mc 6, 36).
Chúa Giêsu trả lời cho các môn đệ:
- " Chính anh em hãy cho họ ăn đi " ( Mc 6, 37).
Qua câu nói vừa kể, Người kêu gọi các môn đệ hãy nhận thức ra nhu cầu của các ông và của dân chúng, " vì trời đã xế chiều ", và tìm cách giải quyết tốt đẹp tìm kiếm thức ăn cần thiết cho tất cả.
Dĩ nhiên Chúa Giêsu cho rằng các ông có khả năng lo lắng được và khuyến khích các ông hãy hành động tự lập, khởi đầu từ những gì các ông có được trong tay lúc đó, " năm chiếc bánh và hai con cá ".
Nhưng kế đến với số lượng dân chúng " năm ngàn người " và như vậy trên thực tế, số lượng thực phẩm quá ít, Chúa Giêsu mới can thiệp, trợ lực phụ túc bảo trợ, giúp cho động tác căn thiệp của các môn đệ có được kết quả đầy đủ tôt đẹp.
Nhưng kế đến, sau khi làm phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều, Chúa Giêsu lại kêu gọi các môn đệ lần nữa tác động căn thiệp để phân phát thức ăn cho dân chúng đang đói khát.
Phép lạ vừa được đề cập, đối với các tác giả Phúc Âm, có liên hệ chặt chẻ với việc thành lập Phép Thánh Thể, bởi lẽ bánh cho dân chúng được nuôi dưỡng không phải chỉ có ý nói lên bánh trái vật chất, mà còn liên tưởng đến Chúa Ki Tô là " bánh hằng sống " để nuôi con người ( Jn 6, 35), có khả năng làm thoả mãn nhu cầu của tất cả mọi ngưòi và tất cả nhu cầu của con người.
Trong biến cố phép lạ chúng ta đang suy niệm, các môn đệ được mời gọi không được giao phó trách nhiệm của mình cho người khác, " để họ vào thôn xóm và làng mạc chung quanh mà mua gì ăn ", ngay cả ủy thác trách nhiệm của mình cho Chúa.
Những gì các ông có thể tự mình hành xử để giải quyết được, tức là những gì các ông thấy và phải làm, tự mình với sức lực và khả năng mình có, phải đứng ra làm cho mình cũng như cho người khác, dĩ nhiên với " phụ túc bảo trợ " ( sussidium ) của Chúa Ki Tô.
2 ) Dụ ngôn các nén bạc.
Với dụ ngôn các nén bạc, Chúa Giêsu để lại cho chúng ta một lời giảng dạy quan trọng về các mối tương quan với người khác, trổi vượt hơn những gì chỉ thuộc về vấn đề " đầu tư ", lý tưởng của tư bản chủ nghĩa ( Mt 25, 14-30).
- " Trên thực tế, các nén bạc không phải là của hồi môn hay tài sản cần phải làm gia tăng số lượng, cho bằng ...là tình yêu thương...Nén bạc là tình yêu thương mà Chúa Cha có đối với tôi, tình yêu thương đó cần phải được nhân lên gắp đôi trong cách đáp ứng của tôi đối với anh em. Đáp ứng lại tình thương yêu đó làm cho tôi hoàn hảo thực thể của tôi, con cái đồng dạng với Cha " ( Fausti Silvano, op. cit., p. 496).
Như vậy địa vị của đứa con được yêu thương đạt tôi trong hoàn cảnh là nhân vật năng động trong việc tác động hành xử đức bác ái và trong tình liên đới hỗ tương với anh em.
Phẩm giá đó của chính con người, cơ chế tổ chức Quốc Gia phải biết kính trọng.
Quốc Gia không thể áp đặt liên đới hỗ tương từ trên cao, bởi vì hành xử như vậy, Quốc Gia làm mất đi tác dụng nhân lên thập bội mà dụ ngôn muốn nhấn mạnh.
Chúa Giêsu đến để ban cho chúng ta những nén bạc tình yêu thương của Người và mời gọi chúng ta hãy biết " đầu tư " các nén bạc đó trong các mối tương quan xã hội, làm cho chúng luân chuyển càng nhiều càng tốt, nhứt là đối với những ai nghèo hèn.
Nhưng các nén bạc trong dụ ngôn được giao cho theo số lượng khác nhau. Điều đó có nghĩa là mỗi người được mời gọi tùy theo khả năng và thẩm quyền của mình, hãy cộng tác mỗi người một cách cá biệt vào chính lãnh vực hoạt dộng của mình.
Ông chủ trong dụ ngôn, trong bối cảnh của chúng ta và cùng với những sự dè dặt phải có, chúng ta có thể so sánh ông như là các cơ chế " ở cấp bậc cao hơn ", có khả năng phụ túc bảo trợ cho các tổ chức cũng như tư nhân " ở cấp bực thấp hơn " hoàn thành mục đích của mình, qua các việc trợ lực, giúp đỡ, cung cấp, để cho các chủ thể hạng dưới đang bàn có đủ điều kiện để hoạt động tự lập.
Tất cả những gì vừa kể hướng dẫn chúng ta về nguyên tắc " phụ túc bảo trợ " , nhưng điều vừa kể chỉ có ý nghĩa, nếu động tác " phụ túc bảo trợ " được đặt nền tảng trên tình yêu thương, thoát xuất từ Thiên Chúa và cả trên nền tảng liên đới hỗ tương.
Như vậy, cả hai nguyện tắc mặc nhiên liên hệ với nhau.