Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Đinh Văn Tiến Hùng
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm BÙI NINH, Gp Bùi Chu
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  GH. Đồng Trách Nhiệm
LIÊN ĐỚI HÕ TƯƠNG VÀ PHỤ TÚC BẢO TRỢ TRONG HUẤN DỤ XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI ( 3 )

 

NGUYỄN HỌC TẬP  

III - Nền tảng của liên đới hỗ tương và phụ túc bảo trợ.    

A - Nền tảng của liên đới hỗ tương.

Nền tảng mà trong đó mọi nguyên tắc Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội có được căn nguyên, không có gì phải nghi ngờ, chắc chắn phải là nền tảng về phẩm giá của con người.

Như vậy căn nguyên của liên đới hỗ tương và phụ túc bao trợ là con người, mà phẩm giá của mình là nguyên tắc được phát xuất từ cuộc gặp gỡ giữa sứ điệp Phúc Âm và các nhu cầu của con người, được tóm gọn trong điều răn tối thượng kính yêu Thìên Chúa và yêu thương người thân cận, cùng hoà hợp với nguyên tắc công lý, liên quan đến  các vấn đề được phát xúất từ cuộc sống xã hội (  LC, n. 72)

Phẩm giá con người có giá trị

   - không những chỉ vì con người là con người, theo nhãn quang nhân loại luận ( antropologico ),

   - mà thượng đỉnh giá trị của mình, bởi vì con người là tạo vật, được Thiên Chúa là Đấng Tạo Hoá dựng nên, nên là giá trị được đặt nền tảng nơi Thiên Chúa ( giá trị thần học ).

Và sau cùng, trong nhãn quang Ki Tô giáo, chúng ta cần thấy được phẩm giá con người có nền tảng Ki Tô luận ( Cristologico), bởi vì con người được Chúa Ki Tô, Thiên Chúa nhập thể, để mạc khải hoàn hảo con người cho chính con người,  giá trị thượng đẳng của mình ( Gaudium et spes, n. 22).   

   1 - Nền tảng Thánh Kinh và Thần Học.

Khởi nguồn từ nền tảng Thánh Kinh, Giáo Hội nhận biết  con người có phẩm giá không thể so sánh được và cũng không thể bị xâm phạm hay chuyển nhượng được. Bởi vì con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, giống như Thiên Chúa ( Gen 1, 26. 27).

Điều nhận biết quan trọng đó khiến cho lời khẳng định của Giáo Hội về con người:

   - " con người không phải là một vật thể và một yếu tố thụ động trong đời sống xã hội, mà vẫn phải là chủ thể, nền tảng và cùng đích của xã hội " ( Pio XII, Radiomessaggio natalizio 24.12.1944, 5, in AAS 37 ( 1945) 12. 

     a) Con người: hình ảnh của Thiên Chúa.

   - " Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh Người; giống hình ành Thiên Chúa Người dựng nên; người nam và người nữ, Người dựng nên " ( Gen 1. 27).

Thiên Chúa không những dựng nên con người, mà còn đặt con người vào trung tâm và thượng đỉnh của tạo vật, thổi vào lỗ mủi con người hơi thở đời sống, làm cho con người trở nên sống động:

   - " Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật " ( Gen 2, 7).

Như vậy, với tư cách là hình ảnh Thiên Chúa, " giống như Thiên Chúa " ( Gen 1, 26 ), cá nhân của mỗi người đều có phẩm giá con người, chớ không phải chỉ là một vật thể nào đó, một cái gì đó vô danh tánh.

Con người có khả năng nhận biết chính mình, chiếm hũu lấy mình và tự do ban tặng dâng hiến mình, có mối tương quan thông hiệp với người khác ( Catechismo della Chiesa Cattolica, n. 357).

Qua những gì vừa đề cập, chúng ta có thể xác quyết rằng con người là tạo vật duy nhứt có khả năng thông hiệp với Thiên Chúa, bởi lẽ là một con người có nhân vị, được Chúa dựng nên để liên quan thông hiệp với Người.

Mối tương quan đó với Chúa có ảnh hưởng kế đến trong chiều kích cuộc sống xã hội con người: con người " do bản tính nội tại của mình là một thực thể có đặc tính xã hội, không thể sống và diễn tả phát huy tài năng thiên phú của mình, nếu không có được các mối tương quan với những người khác  ( Gaudium et spes, n. 12).

Bởi đó Thiên Chúa dựng nên nhân loại có nam có nữ, như vậy

   - mối thông hiệp giữa họ là hình thức tiên khởi của các mối thông hiệp giữa người với người

   - và đặc tính xã hội của con người đáp ứng lại nhu cầu đối thoại giữa người với người, cần thiết cho cuộc sống của nhau.

Bởi đó, mỗi người, với tư cách là hình ảnh của Thiên Chúa, có được phẩm giá của mình không gì có thể so sánh được đối với các tạo vật khac và với đặc tính xã hội, con người cần sống trong các mối tương quan với người khác.

Điều xác nhận đó là nền tảng gợi hứng của Cựu Ước cho các nguyên tắc liên đới hỗ tương và phụ túc bảo trợ. 

     b) Con người: người canh giữ tạo vật.

Thiên Chúa chúc lành cho ông Adong và bà Eva và nói với ông bà:

   - " Thiên Chúa ban phúc lành cho họ và phán với họ. " Hãy sinh sôi nẩy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển chim trời, và mọi giống vật bò dưới đất " ( Gen 1, 28).

   - " Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn địa đàng, để trồng trọt và canh giữ đất đai " ( Gen 2, 15).

Người nam và người nữ được Chúa đặt đứng trước tất cả các tạo vật khác, với một ơn gọi đặc biệt, đó là để canh chừng và phát triển chúng, dùng chúng để hưởng thụ.

Nhưng quyền được " cai quản " trên các tạo vật khác trên thế giới không phải là lạm dụng chúng một cách ích kỷ tùy hỷ, mà là có trách nhiệm canh giữ chúng và làm cho chúng được phát triển, " trồng trọt và canh giữ đất đai ".

Động từ nguyên bản Do Thái " rhd " có nghĩa là " cai trị ", nhưng không thể dịch " làm chủ, tha hồ lạm dụng tùy hỷ ", cho bằng " hướng dẫn, biến thành thuần thục " ( domestiquer ), biến tạo vật trở thành gia súc quen thuộc trong nhà, để có thể dùng chúng và cho chúng ý nghĩa trong cuộc sống mình ( Frosini Giordano, L'attività umana per una teologia del lavoro, San Paolo, Milano 1994, p. 80).

Như vậy con người được Chúa kêu gọi cộng tác với Người trong tiến trình tạo dựng, bằng cách hành xử có trách nhiệm vị thế chủ nhân của mình, không phải với tư cách tuyệt đối, cho bằng như là người quản trị, để vẫn có thể còn giữ được đặc tính tốt lành khởi thủy của tạo vật

   - " Thiên Chúa thấy đó là điều tốt đẹp " ( Gen 1, 4.10.12.18.21.25).

Sách Sáng Thế Ký dạy chúng ta rằng quyền " cai trị " hay " quản trị " của con người trên thế giới là nhằm đặt cho các sự vật tên của chúng:

   - " Chúa là Thiên Chúa lấy đất nặn ra mọi dã thú, mọi chim trời, và dẫn đến với con người, xem con người gọi chúng là gì: hễ con người gọi mỗi vật là gì, thì tên nó sẽ là như vậy." ( Gen 2, 19).

Và như vậy với tên được đặt cho, con người

   - phải nhận biết các tạo vật theo bản thể của chúng

  - và thiết định một mối tương quan có trách nhiệm với mỗi thứ của chúng ( Pontificio Consiglio della Giustizia e della Pace, Compendio della dottrina sociale della Chiesa, ed. Vaticana, Città del Vaticano 2008, p. 63). 

Phận vụ  gìn giữ các tạo vật được Chúa giao phó cho, không những chỉ gồm tóm vào các tạo vật không phải con người, mà cả đối với mọi người nữa,

   - " Bênh vực và thăng tiến, kính trọng và yêu qúi đời sống là bổn phận mà Chúa giao phó cho mỗi người, trong khi Người kêu gọi họ, như là hình ảnh sống động của mình, tham dự vào chủ quyền trên thế giới...Phận vụ đó được thể hiện trong trách nhiệm cách cá biệt đã được ủy thác cho đối với chính đời sống con người...Bổn phận đón nhận và phục vụ đời sống đối với tất cả và phải được thể hiện nhứt là đối với đời sống trong các hoàn cảnh yếu kém hơn " ( Evangelium vitae, n. 42-42).

Sau những gì vừa được đề cập, chúng ta có thể nói rằng mỗi con người chúng ta đều được Chúa kêu gọi hãy bảo vệ mỗi đời sống con người, nhứt là khi con người đó đang trong tình trạng yếu ớt; nhưng mỗi con người chúng ta cũng có trách nhiệm trợ lực cho người khác có thể hành xử một cách có trách nhiệm quyền mà Chúa giao  cho và không ai có quyền xoá đi quyền tham dự vào tiến trình tạo dựng của Chúa.

Nói cách khác, chúng ta đang nói rằng liên đới hỗ tương và phụ túc bảo trợ là hai nguyên tắc được đặt nền tảng trên những gì được Chúa mạc khải cho, mà chúng ta đã có khởi đầu từ sách Sáng Thế Ký.  

     c) Nền tảng Ki Tô luận ( Christologique ).

Để hiểu được hết quan niệm về " con người hinh ảnh Thiên Chúa ", chúng ta cần lưu ý rằng quan niệm đó trong Tân Ước được quy hướng về Chúa Giêsu, được tuyên xưng là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình:

   - " Họ không tin vì tên ác thần của đời nầy đã làm cho tâm trí họ ra mù quáng, khiến họ không thấy bừng sáng lên Tin Mừng nói về vinh quang của Chúa Ki Tô, là hình ảnh Thiên Chúa " ( 2 Cor 4, 4),

   - " Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là Trưởng Tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo " ( Col 1, 15.

Nhờ mạc khải của Tân Ước, chúng ta biết được động tác tạo dựng của Chúa Cha, cho chúng ta biết đồ án của Thiên Chúa được nhằm vào Chúa Ki Tô và đó là lời kêu gọi con người hãy trở thành con cái trong Chúa Con:

   - "Bởi đó định chuẩn trước tiên của mọi suy tư chính đáng về con người là Chúa Giêsu Ki Tô , chớ không phải ông Adong " Scola Angelo, " Persona e società ", Centro di ricerca per lo studio della dottrina sociale della Chiesa ( a cura 9, Dizionario di dottrina sociale della Chiesa, Vita e pensiero, Milano 2004,p. 31).

Thật vậy, ông Adong,

   -" hình ảnh của con người trong tương lai  và đó là Chúa Giêsu Ki Tô, là ông Adong mới,  chính vì bằng cách mạc khải mầu nhiệm Chúa Cha và tình yêu thương của Người, Chúa Giêsu cũng mạc khải hoàn hảo con người cho con người và cho con người biết được ơn gọi rất cao cả của mình...Với việc nhập thể, Con Thiên Chúa một cách nào đó liên kết với mỗi con người. Người đã làm lụng với đôi tay của con người, đã suy nghĩ bằng trí óc con người, đã hành xử bằng ý chí con người, đã yêu thương bằng con tim con người. Được sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Maria, Người đã thật sự làm người như mỗi người trong chúng ta, tất cả đều giống như chúng ta, ngoại trừ tội lổi " ( Gaudium et spes, n. 22).  

     - c. 1 - Liên đới hỗ tương.

Giải thích vấn đề nhân loại về phương diện các mối tương giao xã hội, trong nhãn quang các Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội, chúng ta tìm được các mối liên quan hiện thực hoàn hảo nơi Chúa Ki Tô.

Người thể hiện sự liên đới hoàn hảo với Chúa Cha và với nhân loại con người và là nền tảng của mọi tâm tình liên đới khác.

Trong đức tin Ki Tô giáo, tình liên đới hỗ tương không phải chỉ là những gì được coi là phụ thuộc, được thêm vào,mà là những gì ở mức độ thượng đỉnh và chân chính.

Đúng hơn là với đức tin, con người có thể canh tân và phát huy phương thức liên đới hỗ tương đích thực hiện tại, bằng cách thanh tẩy và hoàn hảo hoá các phương thức diễn tả hạn hẹp hay không chính xác, có thể tạo hiểu lầm ( Monti Eros, op. cit., p. 82).

Lằn mức tối thượng và chân chính được thiết định liên đới hỗ tương trong đời sống Chúa Ba Ngôi, được Chúa Ki Tô ban cho chúng ta.

Thật vậy, chỉ có tình liên đới hỗ tương đích thực, theo ý nghĩa Phúc Âm,

   - khi nào chúng ta sẵn sàng " hy sinh cả chính mình " vì người khác, thay vì lợi dụng anh ta,

   - " phục vụ người khác "  thay vì đàn áp anh ta ( Sollecitudo rei socialis, , n. 38).

Tâm tình " sẵn sàng dành cho, phục vụ " đó là những gì phản ảnh lại thực thể trong đời sống nội tại của Thiên Chúa, một Thiên Chúa duy nhứt trong Ba Ngôi. Bởi đó chúng ta có thể xác quyết rằng Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm liên đới hỗ tương hoàn hảo:

   - " Bởi vì tình liên đới hỗ tương con người không những  gặp được căn nguyên cuối cùng và điều kiện  khả thi, mà cả mẫu gương đòi buộc nhất, chính trong đời sống Chúa Ba Ngôi " ( Cambón Enrique, Trinità modello sociale, Città Nuova, Roma 1999, p. 78).     

     - c. 2 - Chúa Giêsu Ki Tô : Thiên Chúa ở cùng chúng ta.

Mầu nhiệm nhập thể của Thiên Chúa nơi Giêsu Ki Tô là một biến cố trọng đại làm cho con người hiểu được tình liên đới hỗ tương được thể hiện trong đời sống Chúa Ba Ngôi.

Chúa Giêsu là " Thiên Chúa ở cùng chúng ta ", Đấng nhận lấy các nỗi yếu hèn của dân Người, cùng đồng hành với dân Người, giải thoát họ và thiết lập họ thành một dân tôc duy nhứt, từ bỏ đi bản tính Thiên Chúa của mình để liên đới hỗ tương với nhân loại cho đến chết trên thập giá ( Phil 2, 7-8).

Con Thiên Chúa liên đới đầy đủ với con người, ngoài ra những điều gian ác luân lý. Người là vị Adong mới, đón nhận con người trong tổng thể nhân loại của mình với tất cả các tầm mức của  bản tính nhân loại, không những trong những chiều kích thiêng liêng và cá nhân, mà còn bằng thể xác, xã hội tính và liên hệ hoàn vũ. Người cúi xuống trên các nỗi khốn cùng bất hạnh của con người, đem lại nghị lực cho tất cả những ai mệt nhọc và bị áp bức  :

   - " Tất cả những ai vất vả và mang gánh nặng nể, hãy đến với Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi, bồi dưỡng " ( Mt 11, 28).  

Phúc Âm đã ghi lại cho chúng ta bao nhiêu đoạn văn, trong đó Chúa Giêsu đã chiến đấu chống lại bất công, giả nhân giả nghĩa đạo đức, lạm dụng quyền hành, tham lam lợi nhuận của kẻ giàu có, dững dưng trước đau khổ của những kẻ khó nghèo, và kêu gọi hãy trả lẽ cho lần gặp gỡ sau hết, khi Người trở lại trong vinh quang của Người để phán xét kẻ sống và người chết

Nơi Người nguyên tắc liên đới hỗ tương đã được áp dụng vào lịch sử, một giai đoạn lịch sử đặc biệt, trong đó cho thấy việc đảm nhận lấy những gì tốt đẹp cho người khác như là phận vụ của mình phải thực hành.

Đó là khuôn mẫu cho chúng ta biết phải đo lường tình liên đới hỗ tương của chúng ta như thế nào. 

Chúng ta đã thấy được Thiên Chúa dựng nên con người,

   - không phải chỉ để cho con người có được cuộc sống cá nhân đơn độc, không liên hệ,

   - mà là con người với đời sống tương giao liên hệ và nhằm hiệp nhứt xã hội.

Cũng vậy Thiên Chúa

   - " thánh hoá và cứu độ con người, không phải chỉ từng cá nhân một, loại trừ mối liên hệ hỗ tương, mà là thiết lập quy tựu các cá nhân thành một dân tộc, ban cho họ có khả năng nhận biết Người trong chân lý và phục vụ Người " ( Lumen gentium, n. 9).

Và như vậy chúng ta biết, ngay từ lúc đầu lịch sử cứu rổi, Thiên Chúa đã tuyển chọn một vài người để tạo thành cộng đồng,

   - " đặc tính cộng dồng đó được hoàn thiện hơn và trở thành trọn hảo do công trình của Chúa Ki Tô. Chính Ngôi Lời Nhập Thể muốn tham dự vào cuộc chung sống của nhân loại " ( Gaudium et spes, n. 32). 

Chúa Giêsu Ki Tô, Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta, bởi vì Người đã chia xẻ với chúng ta cuộc sống liên hệ của nhân loại con người, khởi đầu từ cuộc sống trong gia đình để đến các mối liên hệ xã hội.

Nhưng sau khi tử nạn và phục sinh, Người đã thiết lập, qua ân sủng của Chúa Thánh Thần, một dân tộc mới, một niềm thông hiệp huynh đệ và hỗ tương mới,

   - " trong thân thể đó , là Giáo Hôi, trong đó tất cả, là thành phần giữa họ với nhau, đều phục vụ cho nhau, tùy theo ân sủng khác nhau được ban cho họ " ( Gaudium et spes, n. 32).

Giáo Hội múc lấy định hướng và nghị lực từ liên đới hỗ tương đó để cho mình trở thành bí tích và men bột của liên đới hỗ tương đều khắp.

Đặc tính năng động của công cuộc nhập thể in dấu và kiến tạo một cách sâu xa đức tin và sứ mạng của Giáo Hội, bí tích trong dòng lịch sử và trên thế giới tình liên đới của Chúa Ki Tô.

Không có gì nơi con người, mà bị bỏ rơi bên ngoài khỏi phận vụ " thừa tác viên " đức bác ái  của Giáo Hội, gồm cả việc sống đời sống xã hội mà Giáo Hội đảm nhận và thực hiện một cách cá biệt và ưu tiên qua Huấn Dụ Xã Hội của mình ( Cozzoli Mauro, Chiesa, Vangelo e società, San Paolo, Cinisello Balsamo 1996, p. 72).    

Như vậy liên đới hỗ tương múc lấy giá trị thần học của mình từ tầm kích dân Chúa, được Thiên Chúa thiết lập nên trong Cựu Ước và được hoàn hảo hoá nơi Chúa Ki Tô, Con của Người, bởi Cộng Đồng Giáo Hội của Giao Ước Mới.

" Trong Chúa Ki Tô , tình liên đới hỗ tương của Thiên Chúa với chúng ta và của con người trong Thiên Chúa là tình liên đới mới của sự cứu rổi: trong cuộc nhập thể của Chúa Ki Tô, Thiên Chúa đã đảm nhận lấy con người và trong việc phục sinh của Người, con người hay chết của chúng ta đã đạt đến sự sống vĩnh cửu...Bởi đó, mỗi liên đới hỗ tương của con người đều được công cuộc nhập thể và phục sinh của Chúa Ki Tô  hỗ trợ và biến đổi, trở thành cuộc liên đới hỗ tương cứu rổi " ( Cozzoli Mauro, " Virtù sociali ", op. cit., p. 149).

Điều đó khuyến khích người tín hữu Chúa Ki Tô đảm nhạn phận vụ thực hiện sụ  liên đới hỗ tương cứu rổi trong đời sống xã hội của họ và liên đới " mang gánh nặng của nhau " ( Gal 6, 2).

Các Thượng Phụ Công Đồng Vatican II xác nhận rằng

   - " mối liên đới hỗ tương đó phải được tăng trưởng lên và phổ biến khắp thế giới, cho đến cùng mức, và cho đến ngày các con người, được ơn Chúa cứu rổi, hoàn hảo vinh danh Chúa, như là gia đình được Thiên Chúa yêu thương và được người Anh của mình là Chúa Ki Tô yêu thương " ( Gaudium et spes, n. 32.

   - c.3 - Giới răn yêu thương.

Chúa Giêsu làm chiếu rạng lên trước mắt mọi người mối tương quan giữa liên đối hỗ tương và bác ái, nhứt là qua giới răn yêu thương:

   -  Dưới ánh sáng  đức tin, liên đới hỗ tương có khuynh hướng vượt lên trên cả chính mình,để mặc lấy vào mình chiều kích cá biệt Ki Tô giáo của thái độ hoàn toàn cho , nhưng không tha thứ và hoà giải lại. Như vậy người thân cận không phải chỉ là một con người với các quyền và bình đẳng của mình đối với tất cả, mà còn trở thành hình ảnh sống động  của Chúa Cha, được Chúa Giêsu Ki Tô chuộc lại bằng máu của Người và được đặt liên tục dưới động tác của Chúa Thánh Thần. Bởi đó, con người phải được yêu thương, ngay cả anh ta là thù địch, bằng chính cùng một tình thương mà Chúa yêu thương anh ta và đối với anh ta, cần phải sẵn sàng hy sinh cho, ngay cả cuộc hy sinh thượng đỉnh:

   - " Hiến tặng đời sống mình cho anh em " ( 1 Jn 3, 16).

Nhưng chúng ta cần thêm rằng " giới răn yêu thương chỉ có thể thực hành được, không phải chỉ vì đó là điều đòi buộc: tình yêu có thể điều khiển được bởi vì trước đó đã được ban tặng cho " ( Deus caritas est, n. 14).

Thư I Thánh Gioan nói lên thật rõ ràng tư tưởng vừa kể, khi ngài kêu gọi chúng ta hãy yêu thương nhau, bởi vì Thiên Chúa, là Tình Yêu, đã yêu thương chúng ta trước

   - " Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian, để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống " ( 1 Jn 4, 9). 

Như vậy giữa tình yêu Thiên Chúa và tình yêu người thân cận có một mối liên hệ không thể chia cắt được.

   - " Cả hai đều nhắc nhớ chặt chẽ kêu goi nhau khiến cho xác nhận mình yêu Chúa, sẽ trở thành là một lời nói không đúng sự thật, nếu con người đóng kín mình đối với người khác, hay đến cả ghét anh ta " ( Deus caritas est, n. 16). 

Tình Yêu đã làm cho chúng ta thấy được Thiên Chúa nơi Chúa Con, là Đấng đã phán:

   - " Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha " ( Jn 14, 9).

Như vậy, chúng ta có thể có được kinh nghiệm Tình Yêu, bởi vì Tình Yêu đã làm cho chúng ta thấy được Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu, là Đấng đến ở giữa chúng ta, tỏ ra sự hiện diện của Thiên Chúa

   - trong các lời giảng dạy của Chúa Giêsu trong Phúc Âm,

   - trong các Phép Bí Tích

   - và trong những con người, nhứt là nơi những con người rốt hèn, mà người đã đồng hoá mình với các anh em đó:

   - " Mỗi lần các ngươi làm như vậy cho một trong những anh em nhỏ nhứt của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy " ( Mt 25, 40).

Từ tình yêu thương đã ban tặng nhưng trong đó, có thể nảy sinh ra nơi chúng ta đáp ứng trả lời lại cho Chúa và cho người thân cận.

Trong viễn ảnh vừa kể, giới răn tình yêu không những có thể được thể hiện ra như là điều khả thi, mà còn trong chiều kích "quà tặng vui tươi " để thực hiện, hơn là dưới nhãn quang " giới răn bắt buộc phải thực hiện ".

Như vậy liên đới hỗ tương có nền tảng cuối cùng của mình trong tình yêu Chúa, thúc đẩy tôi hãy mau mắn yêu thương người thân cận.

Nhưng áp dụng vào thực tế, có thể người áp dụng đôi khi găp phải khó khăn để xác định câu hỏi:

   - " Ai là người thân cận của tôi ? " ( Lc 10, 29). 

     - c.4 - Dụ ngôn người Samaritano nhân lành.

Trong phúc Âm Thánh Luca ( Lc 10, 25-37), một vị tiến sĩ luật muốn thử thách của Chúa Giêsu, trong việc áp dụng giới rắn tình thương,  bằng cách xin Người cho biết ai là người mà ông phải xem là " người thân cận của mình ".

Trước khi phân tích cấu trả lời của Chúa Giêsu, chúng ta nên tìm hiểu quan niệm " người thân cận " trong Cựu Ước được dùng để ám chỉ về ai.

Trong sách Levi cho thấy rõ chỉ có người Do Thái, hay người ngoại quốc cư ngụ trên đất Do Thái được liệt kê vào hạng người vừa kể, trong trường hợp cần thiết: 

   - " Nếu người anh em của các anh, đang ở gần anh, lâm vào cảnh túng thiếu, và không trả nợ được, thì anh em phải nâng đõ anh ta, dù anh ta là người ngoại kiều hay khách trọ, để anh ta có thể sống bên cạnh anh em...Nếu người anh em của anh em lâm vào cảnh thiếu thốn bên cạnh các anh và phải bán mình cho anh em, thì anh em không được bắt nó làm công việc nô lệ...Tôi tớ năm nữ mà anh em sẽ có, phải là những người thuộc các dân tộc chung quanh anh em; anh em sẽ mua tôi tớ từ các dân tộc ấy " ( Lv 25, 39-44).  

Chúa Giêsu trả lời cho vị tiến sĩ luật bằng một dụ ngôn xoá bỏ đi lằn mức hiện hữu Cựu Ước về quan niệm người thân cận, có ý ám chỉ đến một cộng đồng của một Quốc Gia hay một dân tộc.

   - " Một người từ Giêrusalem xuống Giêrcô ",

Chúa Giêsu khởi đầu kể ra dụ ngôn. " Một người ". Chua Giêsu không nói rõ hơn cho biết con người bất hạnh rơi vào bẩy bọn cướp đó là ai .

Như vậy, " người thân cận " của tôi là bất cứ ai, bởi lý do nhu cầu đòi buộc của anh ta.

Đó là bất cứ ai có hình dạng con người, mà tôi gặp được trên bước đường của tôi, có cùng lắm anh ta cũng có thể là kẻ thù địch của tôi.

Và như vậy quan niệm " người thân cận " được mở tung biên giới ra với tầm mức tổng thể, đều khắp.

Tuy vậy vẫn còn tồn tại lại quan niệm về cách phải hành xử thực tế:

   -  Mặc dầu trương độ của quan niệm được rộng mở ra cho tất cả mọi người, nhưng ý nghĩa của giới răn yêu thương không chỉ hạn hẹp vào quan niệm yêu thương tổng quát và trừu tượng, không có gì phải gắng sức nhọc công, bởi đó Chúa Giêsu mới kết thúc dụ ngôn với vị tiến sĩ luật bằng động từ ở thì mệnh lệnh tính ( impératif ): 

   - " Ông hãy đi và cũng làm như vậy " ( Lc 10, 37), ngừng lại, cúi xuống lau vết thương, băng bó và cứu cấp người bị cướp đánh nửa sống nửa chết, đem về quán trọ.

Còn nữa, Chúa Giêsu còn hướng dẫn vị tiến sĩ luật một bước tiến khác: 

   - " Vậy, theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người bị rơi vào tay kẻ cướp ? " ( Lc 10, 36).

Vị tiến sĩ trả lời:

   - " Chính là kẻ thực thi lòng thương xót đối với người ấy " ( Lc 10, 37a). 

Như vậy bối cảnh đã bị hoàn toàn đảo ngược.

Người thân cận không phải là đối tượng của lòng bác ái, đang có nhu cầu cần được giúp đỡ, mà chính là người có lòng thương xót và người biết làm cho mình trở thành thân cận với người có nhu cầu, là chủ thể của lòng bác ái.

Như vậy lời huấn dạy của Chúa Giêsu là phải biết làm cho mình trở thành " người thân cận " với anh em, biết làm cho mình và tự do của mình cử động hướng về thực hiện điều tốt đẹp cho người khác.

Chúa Giêsu không trả lời cho vị tiến sĩ luật " ai là người thân cận của tôi ?", cho bằng cho ông hiểu " tôi là người phải biết trở nên người thân cận cho ai ".

Ăn ở như vậy, chúng ta chắc chắn " để có được sự sống đời đời làm gia nghiệp " ( Lc 10, 25), như lời hứă và dạy bảo của Chúa Giêsu:

   - " Ông cứ đi và cũng làm như vậy ! " ( Lc 10, 37).

Tác giả:  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!