Chúa nhật VI TN - năm A
Hc 15, 15-20; 1 Cr 2, 6-10; Mt 5, 17-37
Nền văn chương Khôn ngoan rất thịnh hành trong khắp phương Đông thời cổ. Ai cập, trong suốt lịch sử của mình đã sản xuất ra những tác phẩm dạy đàng khôn ngoan. Tại lưỡng hà địa, từ thời Sumer, người ta đã sáng tác ra những cách ngôn, những chuyện biến ngôn, những bài thơ nói về sự đau khổ. Các tác phẩm này đã nhiều lần được đem ra so sánh với Yob. Sự khôn ngoan của Lưỡng hà địa này xâm nhập vào Canaan: Tại Râs Shamra, người ta đã tìm thấy những bản văn bàn về sự khộn ngoan viết bằng tiếng Akkđad. Từ các môi trường nói tiếng Aram thì có sự “Sự Khôn ngoan của Akhiqar”, gốc Assur và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Sự Khôn ngoan này dừng lại ở địa hạt cuộc sống thường nhật, không mấy quan tâm về tôn giáo nhằm soi sáng thân phận của cá nhân, không phải với những suy nghĩ triết học theo kiểu người Hi lạp, nhưng là bằng cách góp nhặt lại những kết quả của kinh nghiệm, trình bày một nghệ thuật sống, hạnh phúc và thành công, dạy con người biết sống hòa hợp với vũ trụ. Nhưng cũng chính những kinh nghiệm của cuộc đời này đã làm nảy sinh giọng điệu bi quan của một số tác phẩm về sự khôn ngoan tại Ai cập cũng như tại Lưỡng hà địa.
Vì thân phận từng cá nhân con người là nỗi ưu tư lớn của nhà Khôn ngoan, nên vấn đề thưởng phạt đối với họ, có một tầm mức quan trọng hàng đầu. Trong những phần cổ xưa của Châm ngôn, sự khôn ngoan, tức là sự công chính, tất yếu dẫn đến hạnh phúc và sự điên dại, tức là sự bất chính đưa tới đổ vỡ. Chính Thiên Chúa thưởng kẻ lành và phạt kẻ dữ như vậy.
Hôm nay, chúng ta nghe một đoạn trong sách Châm Ngôn nói về phần thưởng cũng như hình phạt với những người tuân giữ hay bỏ điều luật của Chúa :
Nếu con muốn thì hãy giữ các điều răn
mà trung tín làm điều đẹp ý Người.
Trước mặt con, Người đã đặt lửa và nước,
con muốn gì, hãy đưa tay ra mà lấy.
Trước mặt con người là cửa sinh cửa tử,
ai thích gì, sẽ được cái đó.
Vì trí khôn ngoan của Đức Chúa thật lớn lao,
Người mạnh mẽ uy quyền và trông thấy tất cả.
Người để mắt nhìn xem những ai kính sợ Người,
và biết rõ tất cả những gì người ta thực hiện.
Người không truyền cho ai ăn ở thất đức, cũng không cho phép ai phạm tội.
Những ai sống theo lời Chúa dạy để rồi sống cuộc đời hoàn thiện thì họ sẽ được Chúa Trời ban thưởng ơn lành, ban thưởng hạnh phúc như Thánh Vịnh đáp ca trong Thánh Lễ hôm nay.
Hạnh phúc thay ai sống đời hoàn thiện,
biết noi theo luật pháp Chúa Trời
Hạnh phúc thay kẻ tuân hành ý Chúa,
hết lòng hết dạ kiếm tìm Người.
Họ không làm điều ác, nhưng cứ đường lối Chúa mà đi.
Vâng lạy Chúa, Ngài đã ban huấn lệnh,
truyền chúng con tuân giữ vẹn toàn.
Ước mong sao con hằng vững bước
theo thánh chỉ Ngài ban.
Để con không xấu hổ
khi nhìn lại các mệnh lệnh của Ngài.
Con thành tâm dâng lời cảm tạ
vì được biết những quyết định công minh.
Mang trong mình thân phận con người, con người vẫn thường thích sống theo bản năng của mình hơn là tuân theo lệnh truyền của Chúa. Bằng chứng hết sức rõ ràng còn đọng lại nơi gia đình nguyên tổ Ađam – Eva. Con người hình như và có vẻ mong như Thiên Chúa biến mất khỏi cuộc đời này để khỏi cần phải giữ luật lệ của Ngài nữa.
Chắc có lẽ Chúa Giêsu nghe người ta xì xầm, bàn tán về các luật và sự hiện diện của Chúa để rồi người ta đưa ra điều này điều kia để bắt bẻ Chúa về những luật của tiền nhân, đặc biệt là luật của Môsê. Hôm nay, Chúa Giêsu nói thẳng với các môn đệ cũng như những người đi theo Chúa.
Ở hội đường, những người ghét Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài nhân danh lề luật bắt bớ các môn đệ của Chúa Giêsu. Bên cạnh đó, những tín hữu có nguồn gốc từ Do Thái giáo, "truyền thống hơn" đôi khi dựa vào sự tuân giữ lề luật theo nghĩa ngữ , đối lại với các tín hữu xuất thân từ đa thần giáo, luôn tìm cách gièm pha lề luật.
Giáo huấn của Chúa Giêsu sẽ chỉnh lưng cả hai nhóm người đó. Quả thật, Ngài tuyên bố rằng mình "không đến để bãi bõ lề luật hay các tiên tri, mà để kiện toàn" nghĩa là thể hiện một cách viên mãn, hoàn hảo trong tình yêu và tự do của Con Cha trên trời.
Vì thế, từ nay "sự công chính" mới hệ tại không phải ở chỗ khép mình một cách bề ngoài vào các tập tục, nhưng là "khuôn mình” theo thánh ý Chúa Cha như Chúa Giêsu. Sống trong cộng đoàn với tình yêu và tự do của con cái. Sống như vậy, những ai bước theo Chúa mới "công chính" hơn các luật sĩ và biệt phái được.
Sau những lời đó là năm phản đề cụ thể hóa "sự công chính mới". Năm phản đề ấy chính là bài học áp dụng nguyên lý tổng quát này vào cuộc sống tín hữu. Chính toàn thể lề luật phúc âm phải bao bọc toàn thể cuộc sống các môn đệ. Năm hình ảnh, mà chúng ta thấy đều bắt đầu với công thức : "Anh em đã nghe biết người xưa dạy rằng... còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết..." Một kiểu nói trống để tránh dùng tên Thiên Chúa, có nghĩa là "Thiên Chúa đã phán", “Anh em đã nghe biết khi lời Chúa được công bố long trọng trong hội đường" , đối lại, Chúa đưa ra những xác quyết của riêng mình "Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết."
Chúa Giêsu đã giới thiệu và tự giới thiệu Ngài như là một Môsê mới, không chỉ đủ thẩm quyền giải thích luật lệ của Thiên Chúa, mà còn đổi mới : Luật Chúa đã bảo anh em ...nhưng Thầy, Thầy bảo anh em ...Ngài còn hơn cả một Môsê mới nữa vì Ngài không chỉ bằng lòng nói về lề luật mới như một nhà làm luật, mà còn cắt nghĩa cho từng người cụ thể để họ gắn bó ngày càng mật thiết hơn với Thiên Chúa Cha, là đấng mà họ phải nên hoàn thiện như Người."
Minh họa đầu tiên là mối "tương giao huynh đệ". Thập giới của Môsê truyền dạy "ngươi không được giết người". Còn Chúa Giêsu, đi đến cùng những đòi hỏi của lề luật, đã tuyên bố rằng, nguyên việc không phạm tội sát nhân thôi chưa đủ, mà còn phải loại bỏ nỗi oán hận và giận hờn khỏi lòng mình nữa.
Trong thập giới của Môsê, lên án tội giết người thuộc giới răn thứ năm. Ở đây, nó được nói đến đầu tiên, chắc chắn vì nó bao hàm một cách tiềm ẩn giới răn tràn đầy bài diễn từ trên núi: tình yêu tha nhân, .. nhạy cảm trong tình yêu tha nhân ... trở thành giới răn đầu tiên : Chúa Giêsu đã thấy mầm mống của giới luật yêu thương này trong điều răn lên án việc giết người. Kính trọng sự sống người khác mở đường cho việc bày tỏ tình yêu ân cần hơn đối với tha nhân. Cả hai đều phải được xem xét trước mặt Thiên Chúa là Đấng mà Chúa Giêsu sẽ coi là quan án và hiền phụ.
Hai ví dụ ở ngôi thứ hai số ít "anh" tiếp nối minh họa thứ nhất "vì thế, khi anh sắp dâng lễ vật truớc bàn thờ...." xung đột là mầm mống sát nhân, và hòa giải là một bổn phận cấp thiết hơn cả việc dâng của lễ cho Thiên Chúa : "Hãy đi làm hòa với người anh em trước đã rồi hãy trở về dâng lễ vật của mình"
"Hãy mau mau dàn xếp với đối phương" : thù oán dây dưa, ngày sau, sẽ vô phương cứu chữa trước tòa án Thiên Chúa .
Minh họa thứ hai nói về mối tương giao nam nữ trong đời sống hôn nhân. Trong Do Thái giáo, thủy chung là nền tảng của đời sống hôn nhân : nó được chứng thực bằng sự thủy chung của Thiên Chúa đối với giao ước và với dân riêng người.
Hôn nhân không chỉ là một khế ước có tính luật pháp. Nó ràng buộc con người tự đáy lòng họ. Vì thế khi người đàn ông đã có vợ thèm muốn vợ người khác là đã phạm vào dây hôn phối. Trái tim đã chệch khỏi giao ước đẹp của hôn nhân.
Minh họa thứ ba nói đến những lời thề hứa mà người ta cho rằng sẽ mạnh hơn khi nại đến những thực tại ít nhiều thánh thiêng : "Chỉ trời, chỉ đất, chỉ Giêrusalem..."
Chúa Giêsu xác quyết, đừng thề gian không thôi chưa đủ, còn phải diệt trừ khỏi lòng ta sự lập lờ, bất chính, đa nghi nữa. Không được đi xa hơn lời nói chân thực giản đơn: "khi các ngươi nói "có" là phải "có".
Mức qui định mà Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ là : biến đổi tấm lòng để có thể hiệp thông với những tình cảm của Thiên Chúa được biểu hiện trong đức Kitô con Ngài. Đối với các môn đệ, kiện toàn lề luật khác hẳn việc thực thi các mệnh lệnh. Đúng hơn, đây chính là việc để cho lề luật kiện toàn chính mình, đưa mình đi tới cùng".
Chúa Giêsu kiện toàn lề luật bằng cách trả lại cho nó tất cả sự trong sáng của lời Thiên Chúa, khi nhấn mạnh đến điều cốt lõi : "Ta muốn lòng nhân từ chứ không phải hy tế."
Khi được hỏi về giới răn trọng nhất, Ngài không do dự trả lời rằng toàn bộ lề luật và tiên tri đều qui về giới răn trọng nhất là yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và yêu thương anh em như chính mình. (Mt 22, 34-40).
Luật có đó để ngăn cản con người không đi quá “giới hạn” của mình. Thế nhưng, con người phải hiểu để rồi sống xa hơn những cái gì mà Luật đưa ra như Chúa nói. Hơn nữa, con người ta phải sống đậm chất lòng nhân chứ không phải là hy tế, hay là dáng vẻ bên ngoài.
Chúng ta cứ nghiệm lại cuộc đời chúng ta, chúng ta thấy thật kỳ diệu. Chúng ta sống như thế nào chúng ta được như vậy. Nếu như chúng ta sống đậm chất cái lòng nhân chúng ta sẽ nhận lại lòng nhân. Nếu chúng ta sống khe khắt luật lệ với người khác chúng ta cũng sẽ nhận lại sự khe khắt của của người khác. Nếu chúng ta thích sống tốt với người khác, chúng ta cũng sẽ đón nhận sự tốt lành từ người khác vậy.