Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Đinh Văn Tiến Hùng
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm BÙI NINH
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  GH. Đồng Trách Nhiệm
CĂN TÍNH NGƯỜI TÍN HỮU GIÁO DÂN TRONG CÔNG ĐỒNG VATICAN II (1)

NGUYỄN HỌC TẬP 

Một trong những thành quả lớn nhứt của tiến trình canh tân Giáo Hội của Công Đồng Vatican II đó là việc vượt thắng được quan niệm tách biệt giữa giáo phẩm và giáo dân.

Trong các Hiến Chế của Công Đồng ( Lumen Gentiu, Gaudium et Spes...) thành phần của hàng giáo phẩm được thúc giục hãy biết đón nhận vai trò nhân vật chính của giáo dân cùng cộng tác với mình trong đời sống ( ad intrra ) và trong sứ mạng ( ad extra ) của Giáo Hội ( cfr. Lumen gentium, LG, 37).

Người tín hữu giáo dân được Công Đồng nhận biết như là chủ thể chính danh đầy đủ tư cách trong Giáo Hội.  

1 - Từ Ki Tô hữu hạng hai trở thành đội ngủ tiền phong của Giáo Hội.

Thật tình mà nói, cho đến Công Đồng Vatican II, người tín hữu giáo dân, nam cũng như nữ, đều được coi là người tín hữu hạng hai trong Giáo Hội. Họ được xác nhận địa vị theo quan niệm tiêu cực, là những người " không thuộc về hàng giáo phẩm và tu sĩ " .

Hiểu một cách nào đó, người tín hữu giáo dân là những đứa con còn niên thiếu, thơ dại trong gia đình Giáo Hội, còn phải tùy thuộc vào những bậc đàn anh của mình, nắm tay dắt đi.

Lý do tại sao sau trên dưới 2000 năm Ki Tô giáo được truyền bá trên thế giới, dòng lịch sử, nhứt là lịch sử Giáo Hội có thể trả lời thoả đáng cho chúng ta, tưởng không cần nhắc lại và cũng không phải là chủ đề chúng ta muốn đề cập đến trong bài đang viết.  

Với Công Đồng Vatican II nhãn quang vừa kể đối với người tín hữu giáo dân đã bị thay đổi và vượt lên trên.

Trước tiên Công Đồng đưa ra một căn tính ( identité ) khác đối với người tín hữu giáo dân, bởi vì họ là thành phần đa số trong Giáo Hội.

Thật vậy, Hiến Chế Lumen gentium phát hoạ căn tính của người tín hữu giáo dân bằng những ngôn từ sau đây: người tín hữu

   - " sau khi được hội nhập vào Thân Thể Chúa Ki Tô qua Phép Rửa và được thiết lập thành dân Chúa, tùy theo khả năng của mình, được tham dự vào tuớc vị tế tự, ngôn sứ và vương giả của Chúa Ki Tô; về phía họ, họ chu toàn, trong Giáo Hội và giữa trần thế, chính sứ mạng của cả dân Ki Tô giáo " ( LG, n. 31).

Những gì vừa trích dẫn cho chúng ta thấy được quan niệm rất tich cực của Công Đồng đối với người tín hữu giáo dân.

Chúng ta có thể nói rằng người tín hữu giáo dân " thuộc về Giáo Hội, là thành phần của Giáo Hội " với đầy đủ danh nghĩa " là thành phần " của mình, là những Ki Tô hữu hạng nhứt. Như vậy tức là thành phần có thứ bậc và địa vị tôn giáo như bất cứ ai khác, như những gì Hiến Chế xác nhận.

Trong ý nghĩa nhìn nhận đó, cái nhìn chuyển hướng về thông hiệp, đây là bước thứ nhứt trong tiến trình suy xét lại của Công Đồng về Giáo Hội. 

Kế đến là bước thứ hai càng củng cố thêm căn tính của người tín hữu giáo dân. Đó là những gì được thể hiện ra trong Hiến Chế Gaudium et spes, trong đó khuôn mặt của người tín hữu giáo dân được thể hiện như là đội ngủ tiền phong của Giáo Hội, một Giáo Hội với sứ mạng phục vụ Phúc Âm cho cả nhân loại ( GS, n. 43):

   - " Từ các Linh Mục, người tín hữu giáo dân nên chờ đợi ánh sáng và sức mạnh thiêng liêng. Nhưng họ đừng nghĩ rằng các vị chủ chăn của mình là những người có kinh nghiệm, đến nỗi đối với mọi vấn đề xãy ra, ngay cả những vấn đề hệ trọng cũng vậy, các vị có thế có được câu trả lời sẵn sàng thiết thực hay đó chính là sứ mạng của các vị. Đúng hơn họ nên lãnh lấy trách nhiệm của chính mình ".

Điều vừa kể cho thấy đó là quan niệm thật cách xa khỏi những gì qua bao thế kỷ đã ràng buộc " thành phần đại đa số " trong Giáo Hội chỉ liên hệ đến những lãnh vực " vòng ngoài " hay họ chỉ là đám đông " ăn cơm ngụội ở nhà ngoài " trong đời sống Giáo Hội, nói như tục ngữ Việt Nam chúng ta.

Người tín hữu giáo dân trong quan niệm đổi mới của Công Đồng Vatican II được mời gọi làm đâm hoa kết quả sung mãn cho chính đời sống Giáo Hội. 

 2 - Vai trò nhân vật chính của người tín hữu giáo dân trong sứ mạng của Giáo Hội. 

Trong định hướng mới của Công Đồng Vatican II, quan niệm " Giáo Hội hướng nội " ( ad intra )  của quá khứ nhường chỗ cho quan niệm " Giáo Hội hướng ngoại hay hướng tha " ( ad extra ).

Không phải Giáo Hội để cho thế gian phục vụ mình, cho bằng ngược lại Giáo Hội phục vụ thế gian.

Tư tưởng đó đặt lên hàng đầu sứ mạng của Giáo Hội, một sứ mạng cũng liên quan đến cấu trúc nội tại của Giáo Hội. 

Thế giới mà Giáo Hội được sai đi để thục hiện sứ mạng cứu rổi, không phải là một thế giới trừu tượng, mà là thế giới đang hiện hữu trước mắt. Thế giới đó trong nhãn quang của Hiến Chế Gaudium et spes

   - " nhân loại với tất cả những niềm vui và hy vọng, những buồn phiền và lo âu của mình " ( GS, n. 1).

Trong môi trường đó,động tác của người tín hữu giáo dân là động tác chính yếu được mời gọi cần thiết phải có để  thực hiện sứ mạng. Bởi lẽ có những hoàn cảnh và những vấn đề liên quan đến các thực tại trần thế, trong đó người tín hữu giáo dân mỗi ngày đang sống cuộc đời của mình.

Ai là thành phần chính danh của Giáo Hội Chúa Giêsu Ki Tô, người nam cũng như người nữ, đều được mời gọi hãy đặc tâm chú ý đến những gì đang xảy ra trong thế giới thực tại. Trong môi trường thế giới to lớn của các mối tương quan xã hội - chính trị, nơi soạn thảo các quyết định hệ trọng có liên quan gián  tiếp hay trực tiếp đến cả nhân loại và các thành phần của mình, cũng như ở những tiểu thế giới của các mối liên hệ giữa cá nhân với nhau, nơi mà các quyết định đó có ảnh hưởng trực tiếp đến các thực tại trần thế. Ở đó, đụng chạm trực tiếp với các thực thể, người tín hữu giáo dân được kêu gọi hãy hành xử phận vụ phục vụ Phúc Âm của mình, góp phần từ trong lòng các thực thể đó, như là " men bột ", nói theo ngôn từ của Hiến Chế Lumen gentium, n. 31, để biến đổi cuộc chung sống của nhân loại, rao giảng và nhân chứng Chúa Ki Tô cho thế giới bằng đời sống,lời nói và việc làm của mình.

Là môn đệ của Chúa Giêsu Ki Tô, các tín hũu giáo dân, nam cũng như nữ, được kêu gọi hãy thực hiện động tác phục vụ Phúc Âm đó cho thế giới, với tư cách là những người tham dự ba tước vị của Chúa Ki Tô, tư tế, ngôn sứ và vương giả.  

Thi hành tước vị ngôn sứ của mình, người tín hữu giáo dân được mời gọi thực hiện giữa trần thế bằng cách cố gắng nhận ra những dấu chỉ thời đại ( signa temporis )  và chú giải các dấu chỉ đó dưới ánh sáng Phúc Âm ( GS. n. 4a).

Nói cách khác, được mời gọi hãy nhận ra điều đã và đang xảy ra trong lãnh vực trần thế, các dấu chỉ sự hiện diện thực tại hay là đồ án của Chúa ( GS, n. 11a).

Việc chuẩn định của họ nhằm lớn tiếng nói lên những gì tích cực tốt đẹp, nhận biết rằng đó là đồ án của Chúa và can đảm phản bát, tố cáo những gì tiêu cực, sai trái  mà mình khám phá ra, như là những gì nghịch lại ý muốn của Thiên Chúa.

Còn nữa, việc nhận thức và chuẩn định những thực thể trần thế như vừa nói, không phải để " thấy đó rồi bỏ đó ", cho bằng chuẩn định để nhằm dấn thân tác động tương xứng với tình thế, như lương tâm mình đòi hỏi.

Thái độ của người tín hữu Chúa Ki Tô nói chung và nhứt là người tín hữu giáo dân đối với những lãnh vực trần thế, những gì liên hệ đến đời sống của anh em, không phải là thái độ " thấy rồi bỏ đó " hay " lách sang rồi bỏ đi luôn ", như những người có cách sống " vô trách nhiệm " trong dụ ngôn người Samaritano nhân lành ( Lc 10, 29-37), mà là những người dấn thân lớn tiếng nói lên cho thấy sự hiện diện và đồ án của Chúa trong lịch sử và đứng ra hành xử can thiệp theo lương tâm trách nhiệm của mình, nếu không là cách ăn ở làm ngược lại những gì Chúa Giêsu đã khuyên dạy thầy thông thái luật " để có sự sống đời đời làm gia nghiệp ":

   - " Ông hãy đi và cũng làm như vậy " ( Lc 10, 37). 

 Cũng vậy, với tước vị tư tế,  phụng vụ được thiết lập nhằm cử hành giữa thế giới con người, để hiến tặng giữa thế gian " thờ phượng  thiêng liêng " mà Thánh Phaolồ đã viết cho các tín hữu Roma:

   - " Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người . Anh em đừng có rập theo đời nầy, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái là gì tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo" ( Rom 12, 1-2). 

Và cách phượng tự xứng đáng đep lòng Chúa như vừa được trích dẫn, Hiến Chế Lumen gentium đặt liên hệ mất thiết với cuộc sống xứng đáng và có trách nhiệm của người Samaritano nhân lành, theo tiếng nói của lương tâm, mà người tín hữu giáo dân đang sống trong môi trường trần thế hằng ngày của mình.

Phụng vụ và thiên chức tế tự được sống trong tinh thần thực sự dấn thân và có trách nhiệm trong tất cả những gì cuộc sống của mình được đương kết, sẽ được dâng lên Chúa nhứt là trong phụng vụ Thánh Thể:

   - "   Thật vậy, tất cả các công việc của mình, các lời cầu nguyện và các công cuộc chuyên cần dấn thân tông đồ, đời sống hôn nhân và gia đình, công việc hằng ngày, những lúc giải trí tinh thần và thể xác, nếu họ biết sống trong Thánh Thần của Chúa, và ngay cả những thử thách của cuộc sống, miễn là họ biết kiên nhẫn chịu đựng, tất cả những điều đó trở thành " những của lễ thiêng liêng, đẹp lòng Chúa, nhờ Chúa Giêsu Ki Tô ( 1 Pt 2, 5)...Và như vậy, người tín hữu giáo dân chính họ dâng lên Chúa thế giới, dâng cho Chúa bất cứ ở đâu động tác tôn thờ bằng chính đời sống thánh thiện của họ " ( LG, 34b).   

Sau cùng, như Chúa Giêsu Ki Tô, người tín hữu giáo dân là những môn đệ của Người, nam cũng như nữ, được mời gọi hãy chuyên cần dấn thân làm cho vương tước của Người thể hiện trong mọi môi trường và lãnh vực trần thế:

   - " Thật vậy, Chúa muốn trải rộng vương quyền của Người qua trung gian các người tín hữu giáo dân ; vương quyền của người là vương quyền chân lý và sự sống, vương quyền thánh thiện và ân sủng, vương quyền công lý, tình thương và hoà bình, vương quyền mà trong đó tạo vật được cứu thoát khỏi ách nô lệ của sự hư nát, để biết được tự do vinh hiển của các con cái Chúa ( cfr. Rom 8, 21) ( LG 36b).

Sự chuyên cần dấn thân đó đòi buộc người tín hữu giáo dân đừng để mình trở thành nô lệ của các thực tại trần thế, của cải giàu có hay quyền lực thế trần cũng vậy. Và đồng thời được mời gọi hãy cộng tác để cho anh em mình cũng không phải rơi vào thẩm vực nô lệ đó.

Ngoài ra, việc thực hiện động tác quản trị các thực tại trần thế như vừa kể, khiến cho người tín hữu giáo dân càng ngày càng có kinh nghiệm và hiểu biết khiến cho mình trưởng thành hơn.  

Và đây chính là việc phục vụ đòi buộc khẩn thiết nhứt nơi người tín hữu giáo dân, bởi lẽ chính họ là những người sống và động chạm trực tiếp với các thực tại trần thế. Khẩn thiết, không phải chỉ vì chính họ là những nhân vật trực tiếp có thẩm quyền và khả năng để đối xử, quản trị thiết thực, mà cũng chính vì kinh nghiệm sống của mình, họ là những bậc thầy có thể phổ biến, huấn dạy, truyền đạt các hiểu biết và kinh nghiệm về các thực tại trần thế của mình cho cộng đồng Giáo Hội, cho thế hệ non trẻ sắp lớn lên, kể cả cho hàng giáo phẩm và giáo sĩ là những vị không có kinh nghiệm về vấn đề ( ad hoc ).

Nói tóm lại, người tín hựu giáo dân nam nữ đều được mời gọi cộng tác với khả năng và thẩm quyền chuyên môn của mình đối với các lãnh vực trần thế để tạo nên một thế giới chung sống của nhân loại, càng ngày càng trở nên ít bất xứng với phẩm giá con người hơn, càng ngày càng thích hợp xứng đáng hơn với con người

   - " được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, giống như Thiên Chúa " ( Gen 1, 26.27)

   - và là " con Thiên Chúa " ( Mt 6, 9 ).  

Dĩ nhiên trong tiến trình thực hiện đồ án của công cuộc chuyên cần dấn thân vừa kể, người tín hữu giáo dân nên ý thức rằng không phải chỉ có họ một mình ở trần gian nầy, như những gì Công Đồng Vatican II đã lưu tâm nói với họ,

Bởi lẽ trên thế gian còn có nhiều người khác, mặc dầu không được hay chưa được Phúc Âm gợi ý cảm nhận và soi sáng cho, họ có những hiểu biết và cảm hứng khác, nhưng cũng đang thực hiện những chuyên cần dấn thân tương tợ, nhiều khi gây được hứng thú hơn cả những gì người tín hữu giáo dân đang thực hiện, nhằm đem lại cuộc sống tốt lành hơn cho con người.

Bởi đó Công Đồng Vatican II không quên nhắc nhở người tín hữu giáo dân của mình:

   - " Ước gì họ ( người tín hữu giáo dân ) cũng sẵn sàng cộng tác với những ai cùng nhằm những mục đích như chính mình " ( GS, n. 43b).

Như vậy, trong động tác thực hiện sứ mạng Ki Tô hữu của mình giữa trần thế, người tín hữu giáo dân không bao giờ nên có ý nghĩ xem mình là " bậc đàn anh, bậc thầy ", " ăn trên ngồi trước " đối với người khác hay " thi đua làm " " cạnh tranh " để qua mặt, lướt thắng đối thủ, xem mình là tài giỏi " vô địch ".

Có chăng, thái độ xứng đáng phải có là

   - thẳng thắn chống lại những sai trái tha hoá và đê tiện hoá phẩm giá con người

   - và sẵn sàng cộng tác với những ai thành tâm thiện chí theo lẽ phải hành đông mưu cầu công ích, tạo cho con người môi trường sống xã hội hợp với đia vị con người của mình.

Tác giả:  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!