Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Đinh Văn Tiến Hùng
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  Tư Liệu Giáo Hội
CHÂN DUNG THÁNH NỮ TERESA D'AVILA: CẦU NGUYỆN LÀ THƯỜNG XUYÊN TIẾP XÚC THÂN HỮU TRỰC DIỆN VỚI ĐẤNG MÀ MÌNH BIẾT YÊU THƯƠNG MÌNH.

BÀI GIÁO LÝ NGÀY THỨ TƯ ( 7A 5)

Thính phòng Phaolồ VI, buổi yết kiến ngày thứ tư, 02.02.2011 

ĐỨC THÁNH CHA BENEDICTUS XVI

Anh Chị Em thân mến,

Trong chương trình các Bài Giáo Lý, mà tôi đã muốn dành riêng để nói đến các Giáo Phụ, các khuôn mặt thần học cao cả và các phụ nữ thời Trung Cổ, tôi đã có dịp dừng lại đề cập đến một vài Thánh Nam và Thánh Nữ, đã được tuyên xưng là Tiến Sĩ Giáo Hội do học thuyết của các vị.

Hôm nay tôi muốn được khởi đầu một chuổi ngắn các buổi gặp gỡ để hoàn tất  trình bày các Tiến Sĩ Giáo Hội. Và tôi khởi đầu với một vị Thánh Nữ tiêu biểu cho một trong các vị ở vào vị trí thượng đỉnh đời sống thiêng liêng của mọi thời đại: đó là Thánh Nữ Teresa d'Avila ( còn gọi là Thánh Nữ Teresa của Chúa Giêsu). 

   1 - Sinh ra ở Avila, Tây Ban Nha, năm 1515, với tên họ là Teresa de Ahumana.

Trong quyển tiểu sử, chính Teresa đã đề cập đến một vài điều cá biệt về thời niên thiếu của nàng: được sinh ra bởi " song thân đạo đức và kính sợ Chúa ", trong một gia đình đông đúc, với chín người anh trai và ba chị em gái.

Lúc còn thơ ấu, vừa mới 9 tuổi, cô đã có dịp được đọc về đòi sống của một vài vị tử đạo, gợi ý cho cô cũng muốn được tử đạo, đến nỗi bất thần cô trốn bỏ gia đình để được tử đạo và lên trời ( cfr. Vita I, 4): " con muốn thấy Chúa " cô bé nói với song thân mình.

Một vài năm sau, Teresa nói về những lần đọc sách thời thơ ấu của mình và xác nhận rằng mình đã khám phá ra chân lỳ, có thể lượt tóm trong hai nguyên tắc căn bản:

   - về một phiá: " tất cả những gì thuộc về thế gian nầy đều sẽ qua đi ",

   - phiá bên kia: " chỉ có Chúa hiện hữu luôn luôn, luôn luôn và luôn luôn ",

Đó là chủ đề được nàng lấy lại trong bài thơ rất thời danh :

   - " Không có gì làm cho anh phải băn khoăn, không có gì anh phải khiếp đảm, mọi chuyện điều sẽ qua đi. Chỉ có Chúa không thay đổi. kiên nhẫn sẽ đạt được tất cả. Ai có được Chúa, không thiếu gì hết. Chỉ có được Chúa đủ rồi ".

Teresa  mồ côi mẹ lúc 12 tuổi, cô xin Đức Trinh Nữ Chí Thánh làm mẹ mình ( cfr. Vita 1, 7). 

Nếu trong lúc thiếu thời việc đọc các sách đời làm cho nàng lo ra xao lãng, sống một cuộc sống thế trần, thì kinh nghiệm như là nữ sinh của các nữ tu dòng Thánh Maria Ân Phúc ( Santa Maria delle Grazie) ở Avila và việc năng đọc các sách thiêng liêng, nhứt là các sách cổ điển về đời sống thiêng liêng dòng Phanxicô, dạy cho nàng tập trung chú ý và cầu nguyện.

Năm 20 tuổi, Teresa vào tu viện dòng kín Carmelitano Chúa Nhập Thể ( Carmelitano dell'Incarnazione ), vẫn ở Avila, hội nhập vào đời sống tôn giáo với tên là Teresa của Chúa Giêsu.

Ba năm sau Teresa bị đau nặng, đến nỗi bị hôn mê đến bốn ngày, có vẻ như đã chết ( cfr. Vita 5, 9).

Trong lúc chiến đấu chống lại các cơn bệnh hoạn của mình vị Thánh Nữ thấy trận chiến đấu chống lại các sự yếu đuối và cố gắng sống còn là đáp ứng lại lời kêu gọi của Chúa:

   - " Tôi ao ước được sống còn - Teresa viết - bởi vì tôi biết chắc rằng không phải tôi đang sống, mà tôi đang chiến đấu chống lại một bóng tối của sự chết, và tôi không có ai cho tôi sự sống, ngay cả tôi cũng không thể tự mình chiếm lấy được, và Đấng có thể ban đời sống cho tôi, Người có lý để không tiếp cứu tôi, bởi vì biết bao nhiêu lần tôi đã ngảnh mặt đi đối với Người, và tôi đã rời bỏ Người " ( Vita 8, 2).

Năm 1541 Teresa mất đi sự gần gũi của các người thân: người cha chết đi và tất cả anh em, hết người nầy đến người khác, đều di cư sang Mỹ Châu.

Vào Mùa Chay 1554, lúc 39 tuổi, Teresa đạt đến thượng đỉnh cuộc chiến đấu của mình, chống lại các sự yếu hèn. Cuộc khám phá ra tuợng " Chúa Ki Tô đang khóc ngất " đánh dấu sâu đậm đời của Teresa ( cfr. Vita 9 ).

Vị Thánh Nữ trong khoản thời gian đó tìm gặp được sự cảm nhận đồng thuận  sâu đậm với Thánh Augustino của các " Confessioni " ( Các Lời Thú Nhận), như Thánh Nữ đã viết lên, đó là ngày quyết định cuộc kinh nghiệm bí nhiệm của mình:

   - " Sự việc xảy ra...là bất thần tôi cảm nhận được sự hiện diện của Chúa, mà không thể nào tôi có thể nghi ngờ được rằng Chúa đã hiện diện trong tôi và tôi hoàn toàn được Chúa hấp thụ " ( Vita 10, 1).  

   2 - Song song với việc trưởng thành đời sống nội tâm, Thánh Nữ bắt đầu khai triển thực tế lý tưởng canh tân Dòng Carmelitano .

Năm 1562 Thánh Nữ thiết lập tại Avila, cùng với sự hổ trợ của Đức Giám Mục của thị xã, Đức Cha Alvaro de Mendoza, dòng Carmelitano canh tân đầu tiên. Không lâu sau đó, Teresa cũng nhận được sự đồng thuận của Bề Trên Tỉnh Dòng, Cha Giovanni Battista Rossi.

Trong những năm kế tiếp, Thánh Nữ tiếp tục thiết lập các tu viện Carmelitano mới, với tất cả là 17 tu viện.

Điều quăn trọng căn bản là cuộc gặp gỡ với Thánh Gioan Thánh Giá ( Giovanni della Croce), mà cùng chung với ngài, năm 1568, Thánh Nữ Teresa cũng thiết lập ở Duruelo, gần Avila, dòng đầu tiên các Thầy Carmelitani Đi Chân Không ( Carmelitani Scalzi ).

Năm 1580 Thánh Nữ Teresa được phép từ Roma để nâng thành Tỉnh Dòng Tự Lập các tu viện Carmelitani canh tân của mình, nơi xuất xứ của Dòng Các Tu Sĩ Carmelitani Đi Chân Không.

Teresa kết thúc cuộc sống trần thế của mình, chính trong lúc Thánh Nữ đang dấn thân trong động tác thiết lập. Thật vậy, năm 1582, sau khi thiết lập tu viện Carmelo ở Burgos và đang thực hiện chuyến đi trở về Avila, Thánh Nữ mất đi đêm 15 tháng 10 ở Alba de Tormes, trong lúc miệng còn khiêm nhường thốt lên hai  lời phát biểu

   - " Sau cùng, tôi chết đi như là con cái của Giáo Hội ".

   - " Đã đến giờ rồi, hỡi vị Hôn Phu của em, để chúng ta thấy được nhau ".

Một cuộc sống được tiêu hao trong nội địa Tây Ban Nha, nhưng là cuộc sống được dùng để phục vụ cho cả Giáo Hội.

Teresa được Đức Giáo Hoàng Phaolồ V phong chân phước năm 1614 và được Đức Gregorio XV phong thánh năm 1622, được công bố là Tiến Sĩ Giáo Hội bởi Người Đầy Tớ Chúa Phaolồ VI năm 1970

Thánh Nữ Teresa không có một nền học vấn hàn lâm viện, nhưng Thánh Nữ luôn luôn thu thập làm gia sản các lời dạy bảo của các nhà thần học, các nhà trí thức và các vị sự phụ đời sống thiêng liêng.

Như là nữ văn sĩ, Thánh Nữ luôn luôn trung thành với những gì mà chính cá nhân mình đã sống và đã thấy được nơi kinh nghiệm của những người khác ( cfr. Prologo al Cammino di Perfezione ), có nghĩa là bắt đầu từ kinh nghiệm.

Teresa có dịp tương giao thân hữu thiêng liêng với nhiều Đấng Thánh, nhứt là với Thánh Gioan Thánh Giá ( Giovanni della Croce), Đồng thời Thánh Nữ cũng nuôi dưỡng mình bằng cách đọc sách vở của các Giáo Phụ, như của Thánh Girolamo, Thánh Gregorio Cả, Thánh Augustino.

Giữa những tác phẩm quan trọng của Thánh Nữ, chúng ta nên nhớ đến quyển tiểu sử, được đề tựa là Sách Của Đời Sống ( Libro della Vita ) , mà Thánh Nữ gọi là " Sách Về Các Lòng Nhân Hậu của Chúa " ( Libro delle Misericordie del Signore ). Quyển sách được viết ra trong tu viện Carmelo ở Avila, năm 1565, nói đến con đường tiểu sử và thiêng liêng, được viết ra, như chính Teresa đã xác nhận, để đặt tâm hồn mình trước sự phán định của " Vị Thầy của các vị thầy thiêng liêng " , tức là Thánh  Gioan d'Avila. Mục đích là để nói lên sự hiện diện và động tác của Chúa nhân từ trong cuộc sống mình. Bởi đó tác phẩm thường chứa đựng cuộc đối thoại cầu nguyện với Chúa.

Đây là một bản văn làm cho ai đọc cũng cảm thấy thích thú, bởi vì Vị Thánh Nữ không những kể lại, mà còn cho thấy chính mình đang sống kinh nghiệm sâu đậm của mối tương quan mình với Chúa.

Năm 1566, Teresa viết " Con Đường của Sự Trọn Hảo " ( Cammino di Perfezione ), được Teresa gọi là " Những Lời Cảnh Báo và Khuyên Bảo mà Teresa của Chúa Giêsu trao cho các nữ tu của mình  " ( Ammonimenti e consigli che dà Teresa di Gesù alle sue monache ). Những người được Teresa chú ý gởi đến cho là mười hai nữ tu nhà tập tu viện Carmelo Thánh Giuse ở Avila. Teresa đề nghị với các chị một chương trình đầy cường độ về đời sống suy niệm để phục vụ Giáo Hội, được đặt nền tảng trên các nhân đức Phúc Âm và lời cầu nguyện. Giữa những đoạn qúy giá nhứt là đoạn chú giải Kinh Lạy Cha, là khuôn mẫu để cầu nguyện.  

Tác phẩm bí nhiệm nổi tiếng nhứt của Thánh Nữ Teresa là " il Castello interiore " ( Ngôi Lâu Đài nội tâm ), được viết ra năm 1577, khi Thánh Nữ đã hoàn toàn trưởng thành.

Đây là những gì Thánh Nữ đọc lại cho chúng ta con đường đời sống thiêng liêng của chính mình và, đồng thời, cũng là những điều khoản chỉ dẫn tiến trình có thể cuộc sống Ki Tô giáo tiến đến hoàn hảo, thánh thiện, dưới động tác của Chúa Thánh Thần.

Để diễn tả điều đó, Teresa liên tưởng đến cấu trúc của một ngôi lâu đài có bảy phòng, như là hình ảnh nội tâm của con người, đồng thời bằng cách giới thiệu hình ảnh biểu tượng của con tằm tái sinh lại thành con bươm bướm, để nói lên cuộc chuyển hoá từ tự nhiên đến siêu nhiên .

Vị Thánh Nữ múc lấy cảm hứng của mình trong Thánh Kinh, nhứt là trong sách Diễm Ca ( Cantico dei Cantici ), với biểu tượng cuối cùng của " đôi Hôn Nhân ", cho phép Thánh Nữ diễn tả lên, trong căn phòng thứ bảy,  thượng đỉnh của đời sống Ki Tô hữu trong bốn phương diện: Chúa Ba Ngôi Luận, Ki Tô Luận, Nhân Chủng Luận và Giáo Hội Luận. 

Liên quan với công trình sáng lập viên các tu viện Carmeli canh tân, Teresa dành cho quyển " Quyển sách của các cuộc thiết lập " ( il Libro delle fondazioni ), được viết ra giữa năm 1573 và 1582, trong đó Teresa đề cập đến đời sống của nhóm tu sĩ đang nảy sinh. như trong tiểu sử, những gì tường thuật lại là tường thuật nhằm làm sáng tỏ nhứt là động tác của Chúa  trong công trình thiết lập các tu viện mới.

   3 - Không phải dễ dàng gì tóm lượt lại trong một ít dòng đời sống thiêng liêng sâu thẩm và mạch lạc đươn kết nhau của Thánh Nữ Teresa.

Tôi muốn được đề cập đến một vài điểm chính yếu.

   a) Trước hết, Thánh Nữ Teresa đưa ra những nhân đức Phúc Âm như là nền tảng của đời sống Ki Tô hữu và con người,

   - đặc biệt là tinh thần tách rời khỏi của cải hay khó nghèo Phúc Âm. Điều vừa kể có liên quan đến tất cả chúng ta.

   - Cũng vậy, tình yêu thương của người nầy đối với người kia là yếu tố chính yếu của cuộc sống cộng đồng và xã hội;

   - lòng khiêm nhường như là lòng yêu mến sự thật,

   - thái độ xác quyết thực hiện như là hậu quả của lòng can đảm Ki Tô giáo;

   - niềm hy vọng nơi Chúa, được diễn tả như là sự khao khát nước hằng sống. 

   b) Kế đến, Thánh Nữ Teresa đề nghị phải có lòng đồng thanh hợp ý với các đại nhân vật trong Thánh Kinh và biết sống động lắng nghe Lời Chúa. Thánh Nữ cảm thấy mình có cùng một tâm thức, tình cảm với

   - vị hôn thê trong sách Diễm Ca

   - và với Thánh Phaolồ,

   - ngoài tâm thức, tình cảm đối với Chúa Giêsu Khổ Nạn và Chúa Giêsu Thánh Thể. 

   c) Sau đó Thánh Nữ cũng nhấn mạnh cầu nguyện là điều chính yếu biết bao: cầu nguyện, Thánh nữ nói, " có nghĩa là thường xuyên tiếp xúc thân hữu trực diện, bởi vì chúng ta thường lui tới trực diện với Đấng mà chúng ta biết là Người thương yêu chúng ta." ( Vita 8, 5).

Tư tưởng của Thánh Nữ Teresa trùng hợp với định nghĩa của Thánh Tôma Aquino về tình yêu thương đối với Chúa, như " amicitia quaedam hominis ad Deum " ( một loại tình thân hữu của con người đối với Chúa), là Đấng trước tiên đã hiến tặng tình thân hữu của mình cho con người, sáng kiến phát xuất từ Chúa ( cfr. Summa Theologiae II - II, 23, I ) .

Cầu nguyện là đời sống và triển nở dần dần, tương đương với sự tăng trưởng đời sống Ki Tô hữu:

   - khởi đầu cầu nguyện bằng lời nói,

   - bước qua kế đến vào tiến trình nội tâm qua đông tác suy niệm và cầm lòng tập trung tâm trí,

    để đạt đến hiệp nhứt yêu thương với Chúa Ki Tô và với Chúa Ba Ngôi Cực Thánh.

Dĩ nhiên đó không phải là một cuộc triển nở, trong đó bước lên những nấc thang cao hơn là bỏ đi thể thức cầu nguyện trước đó, mà là một bước tiến đến sâu đậm hơn trong mối tương quan với Chúa đang quấn lấy cuộc sống.

Hơn là một lớp sư phạm về cầu nguyện, con đường thiêng lieng của Thánh Nữ Teresa là cuộc hành trình bí nhiệm mà Thánh Nữ muốn dạy cách cầu nguyện cho những ai đọc các tác phẩm của mình, bằng chính Thánh Nữ cũng cùng cầu nguyện chung với họ. Thật vậy, rất thường, Thánh Nữ gián đoạn điều đang tường thuật hay trình bày để bậc lên những tâm tư cầu nguyện. 

   d ) Một chủ đề khác Thánh Nữ cũng đặc tâm chú ý đó là bản tính nhân loại của Chúa Ki Tô.

Thật vậy, đối với Thánh Nữ Teresa, đời sống Ki Tô giáo là đời sống tương quan với Chúa Giêsu, đạt đến tuyệt đỉnh bằng việc hiệp nhứt với Người qua ân sủng, tình yêu và để bắt chước Người.

Từ đó Thánh Nữ cho biết điều quan trọng  vai trò của suy niệm về cuộc Khổ nạn và về Thánh Thể, như là sự hiện diện của Chúa Ki Tô trong Giáo Hội, cho đời sống của mỗi tín hữu Chúa Ki Tô và như là tâm điểm của phụng vụ.

Thánh Nữ Teresa sống bằng một tình yêu vô điều kiện cho Giáo Hội, Thánh Nữ tỏ ra một tinh thần sống động thuộc về Giáo Hội " sensus ecclesiae "  trước những biến cố chia rẻ và đối chọi  trong Giáo Hội thời đó.

Thánh Nữ canh tân Dòng Carmelitano với chủ ý phục vụ tốt đẹp hơn và bênh vực hữu hiệu hơn " Giáo Hội Công Giáo Roma ", và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì Giáo Hội ( cfr. Vita 33, 5). 

   e ) Phương diện cuối cùng của học thuyết Thánh Nữ Teresa mà tôi muốn được nhấn mạnh, đó là sự hoàn hảo như là ước vọng và cùng đích của cả đời sống Ki Tô hữu.

Thánh Nữ có một tư tưởng rất rõ ràng về " sự hoàn hảo " của Chúa Ki Tô, mà người Ki Tô hữu sống. Vào phần cuối cùng của tiến trình trong " Castello interiore " ( Lâu Đài nội tâm ), trong " căn phòn cuối cùng ", Thánh Nữ Teresa diễn tả trạng thái hoàn hảo đó, được thể hiện trong cuộc sống trong Chúa Ba Ngôi, được hiệp nhứt với Chúa Ki Tô nhờ mầu nhiệm nân tính của Người.      

Anh Chị Em thân mến,

Thánh Nữ Teresa của Chúa Giêsu thật là một vị vị thầy của đời sống Ki tô hữu, của các tín hữu ở mọi thời đại.

Trong xã hội của chúng ta, thường thiếu thốn các giá trị thiêng liêng, Thánh Nữ

   - dạy chúng ta hãy là những nhân chứng cho Chúa không biết mỏi mệt, cho sụ hiện diện và cho động tác của Người,

   - dạy chúng ta hãy thực sự cảm nhận được sự khao khát có được Chúa, là những gì hiện hữu sâu thẩm trong tâm hồn chúng ta, lòng khao khát thấy được Chúa, tìm kiếm Chúa, được đàm thoại với Người va trở thành bạn hữu của Người.

Đó là tình thân hữu cần thiết đối với mọi người chúng ta, mà chúng ta phải gắng công tìm kiếm ngày nầy qua ngày khác, luôn luôn lập lại.

Gương mẫu của vị Nữ Thánh nầy, với đời sống chiêm niệm sâu đậm và hoạt động hữu hiệu, thúc đẩy cả chúng ta mỗi ngày dành thời giờ chính đáng cho việc cầu nguyện, cho việc rộng mở mình ra với Chúa, cho con đường đi tìm Chúa, để thấy được Người, để gặp được tình thân hữu của Người và đó là đời sống, bởi vì nhiều người trong chúng ta có lẽ phải nói " tôi không sống, tôi không sống thực sự, bởi vì tôi không sống bản chất của đời sống tôi ".  

Bởi đó thời gian để cầu nguyện không phải là thời gian bị mất đi, mà la thời gian trong đó con đường cho đời sống được mở ra, đưọc mở ra con đường để học hỏi nơi Chúa một tình yêu nồng nhiệt đối với Người, đối với Giáo Hội của Người và một lòng bác ái thực hữu đối với anh em chúng ta.

Cam ơn Anh Chị Em. 

Phỏng dịch từ nguyên bản Ý Ngữ: Nguyễn Học Tập.

( Thông tấn www.vatican.va , 02.02.2011). 

Tác giả:  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập (dịch)

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!