SUY NIỆM PHÚC ÂM ( IV A 15 ); ( 06.02.2011); ( Mt 5, 13-16)
CHÚA NHÂT V PHỤNG VỤ THƯỜNG NIÊN, NĂM A
NGUYỄN HỌC TẬP
Đoạn Phúc Âm hôm nay ( Mt 5,13-16), là đoạn Phúc Âm xác quyết rất rõ ràng vai trò của người môn đệ Chúa Giêsu, được đặt một cách có ý nghĩa, liền sau phần Phúc Âm đề cập đến Tám Mối Phước Thật ( Mt 5, 1-12), chúng ta đã có dịp suy niệm Chúa Nhật tuần trước.
Người môn đệ là kẻ được chúc phước, nếu họ biết sống và thể hiện được vai trò môn đệ của mình.
Ý nghĩa của đoạn Phúc Âm hôm nay được biểu tượng bằng hai thực tại, mà Chúa Giêsu muốn so sánh với vai trò của các môn đệ Ngài:
- muối ( Mt 5, 13)
- và ánh sáng ( Mt 5, 14-16).
1) Những câu Phúc Âm chúng ta vừa đọc trong Thánh Lễ, điều trước tiên làm cho chúng ta chú ý là các động từ được dùng ở thể “ thực trần cách ” ( mode indicatif) và “ thì hiện tại ” ( temps présent).
Chúa Giêsu không nói với các môn đệ Ngài “ anh em phải trở nên ” ( thể mệnh lệnh cách, mode impératif) hay “ anh em có thể là ” ( thể tiếp thuộc cách, mode subjonctif) muối cho thế gian…, ánh sáng cho thế gian.
Ngài dùng động từ ở “ thực trần cách và thì hiện tại ” ( mode indicatif, temps présent): “…anh em là muối cho thế gian…, là ánh sáng cho trần gian ” ( Mt 5, 13.14), để chỉ một thực tại hiện hữu và xác định, ở đây và ngay bây giờ.
Các môn đệ Chúa Giêsu hiện tại “ là muối cho thế gian…, là ánh sáng cho trần gian ”, bắt đầu ngay từ lúc các ngài tuân theo tiếng Chúa gọi và theo Ngài.
Đó cũng là những gì Chúa Giêsu cũng nói với chúng ta, mỗi người tín hữu Chúa Ki Tô, ngay khi chúng ta nhận phép rửa.
Mỗi tín hữu Chúa Ki Tô “ là muối cho trần gian…, là ánh sáng cho thế gian ”, ngay bây giờ và trong lúc nầy.
Muối được dùng để nêm và giữ gìn thức ăn. Không có muối, thức ăn sẽ lạc lẻo, khó ăn và dễ bị biến chất, hư thối.
Đó là những đặc tính làm cho muối trở nên hữu ích và qúy báu.
So sánh vai trò của các môn đệ với muối, Chúa Giêsu muốn làm nổi bậc phận vụ của các vị và của chúng ta, người tín hữu Chúa Ki Tô giữa trần thế, giống như phận sự của muối đối với thức ăn: làm tăng thêm gia vị và giữ cho trần gian khỏi hư thối bằng tinh thần Phúc Âm.
Chúng ta có nhiệm vụ làm cho thế giới có thêm gia vị, trở nên tốt đẹp hơn, đáng ao ước hơn cho cuộc sống xứng đáng với nhân phẩm con người, biến đổi thế gian bằng rao giảng Nước Trời, như Chúa Giêsu đã loan báo:
- “ Anh em hãy sám hối ( hãy quy hướng về Thiên Chúa), vì Nước Trời đã đến giữa anh em ” ( Mt 4, 17).
Hiểu như vậy, vai trò hiện tại của các môn đệ, của mỗi người tín hữu Chúa Ki Tô là vai trò của men bột, để biến thế gian theo tinh thần của Phúc Âm:
- “ Nước Trời cũng giống như nắm men bà kia lấy cho vùi vào ba thúng bột, cho đến khi tất cả bột dậy men” ( Mt 13, 33).
Như muối cần thiết cho thức ăn, các môn đệ cũng vậy, các môn đệ và chúng ta, người tín hữu Chúa Ki Tô, con cái các ngài, cần thiết cho thế gian, biến thế gian trở nên tốt lành hơn, môi trường thích hợp hơn cho cuộc sống con người, sống và hành xử xứng đáng địa vị của mình là con Thiên Chúa, như muối làm cho thức ăn có thể ăn được, và ăn ngon hơn.
Hình ảnh muối chúng ta có thể tìm thấy trong Cựu Ước, trong sách Levi, các đoạn thuật lại các buổi lễ hiến tế:
- “ Các ngươi phải bỏ muối vào lễ phẩm các ngươi dâng hiến; các ngươi không được dâng lễ phẩm các ngươi thiếu muối giao ước của Thiên Chúa các ngươi ” ( Lv 2, 13).
Với thành ngữ “ muối giao ước ”, Cựu Ước có ý ám chỉ đến mối liên hệ giữa Thiên Chúa và dân Người tuyển chọn.
Hiểu như vậy, chúng ta sẽ thấy các lễ vật dâng lên Thiên Chúa sẽ không có ý nghĩa nếu thiếu “ muối giao ước ”, mối tương giao giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Và “ muối giao ước ” do đó biểu hiệu cho lòng ước muốn con người được thông hiệp với Thiên Chúa của mình.
Và hiểu “ muối ” trong Phúc Âm theo ý nghĩa vừa kể của Cựu Ước, chúng ta có thể hiểu rằng đối với Chúa Giêsu các môn đệ Ngài, các vị và cả chúng ta con cái các vị trong đức tin là “ muối giao ước ”, thể hiện giao ước giữa Thiên Chúa và nhân loại.
Như vậy các môn đệ, các tín hữu Chúa Ki Tô là những người thể hiện sự hiện diện sống động và tình thương Thiên Chúa cho nhân loại, thể hiện sự thông hiệp hiện hữu của con người với Thiên Chúa.
Người môn đệ, người tín hữu Chúa Ki Tô là nhân chứng cho thế gian thấy rằng mọi người đều có thể sống thông hiệp Cha con với Thiên Chúa.
Hình ảnh người môn đệ là nhân chứng cho sự hiện hữu của Thiên Chúa giữa trần thế cũng được thể hiện qua hình ảnh của ánh sáng.
Ánh sáng của đèn được thắp sáng và đặt trên đế để soi sáng cho mọi người trong nhà, được Chúa Giêsu lấy lại hình ảnh của thành Giêrusalem được xây trên núi, để các dân nước đều thấy và tề tựu đến tôn thờ Thiên Chúa:
- “ Bởi vì từ Sion luật lệ sẽ được ban truyền và từ Giêrusalem, lời của Thiên Chúa ” (Is 1, 5).
Trong sách tiên tri Isaia, thành Giêrusalem và Đền Thờ của Giêrusalem tượng trưng cho sự hiện diện của Thiên Chúa, là ánh sáng của các dân nước, nơi quy tựu của mọi người, đến để học các sống biết sống theo thánh ý của Ngài:
- “ Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được ” ( Mt 5, 14).
Các môn đệ của Chúa Giêsu, “ ánh sáng của thế gian ”, cũng có cùng một phận vụ: là dấu chỉ thấy được của tình thương của Thiên Chúa cho nhân loại, là định điểm và là điểm tựa cho mọi người muốn tìm sống theo thánh ý Chúa, sống trong tình huynh đệ và công chính.
Dĩ nhiên với sứ mạng cao cả như vừa kể, nhân chứng cho sự hiện diện của Thiên Chúa và tình thương của Ngài cho nhân loại, là điểm tựa cho cuộc sống huynh đệ và công chính, người môn đệ, người tín hữu Chúa Ki Tô có thể thất bại trong việc chu toàn.
Đó là những gì Chúa Giêsu cảnh cáo trước, khi Ngài nói đến muối mất đi vị mặn của mình và ánh sáng bị đặt dưới đáy thùng:
- “ Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì mà muối cho nó mặn lại? Nó thành vô dụng, chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp dưới chân…Cũng chẳng ai thắp đèn rồi lại để dưới đáy thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà ” ( Mt 5, 13.15).
Người môn đệ Chúa Kitô, người Ki Tô hữu, trở thành môn đệ qua phép rửa, phải là “ muối cho trần gian ”, là “ánh sáng cho trần gian”, là Đền Thờ Giêrusalem xây trên núi, nhân chứng cho sự hiện hữu của Thiên Chúa và cho tình thương của Người cho nhân loại, là định điểm và là điểm tựa cho cuộc sống thế gian bằng tình thương của Thiên Chúa, liên đới huynh đệ và công chính, chớ không phải là “ muối nhạt đi ”, là “đèn để dưới đáy thùng”.
Đó là những gì Chúa Giêsu cảnh cáo các môn đệ, các tín hữu Chúa Ki Tô, đừng đánh mất khả năng cá biệt của mình, khả năng nhân chứng, định điểm và điểm tựa hữu hiệu của tình thương Thiên Chúa, khả năng làm cho sinh ra và vung trồng trong tâm hồn con người lòng ao ước được sống chung với Chúa, sống thông hiệp với Ngài, sống liên đới và công chính đối với anh em.
Hậu quả thảm đạm của người Ki Tô hữu mất đi khả năng nhân chứng cho Chúa của mình đối với người khác là hậu quả được Chúa Giêsu diển tả trong câu Phúc Âm:
- “…chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi ” ( Mt 5, 13).
Đó cũng là hình ảnh Thiên Chúa xét đoán dân được chọn, bất tuân Ngài trong sách tiên tri Isaia:
- “ Khốn thay Assur, ngọn roi ta dùng trong cơn thịnh nộ, trận lôi đình của Ta là cây gậy trong tay nó. Ta sai nó đến với một dân vô luân. Ta truyền cho nó đến với một dân tộc chọc giận Ta, để tha hồ cướp bóc, tha hồ chiếm đoạt, để chà đạp dân ấy như bùn đất ngoài đường” ( Is 10, 5-6).
Như vậy đối với người môn đệ, người tín hữu Chúa Ki Tô không chu toàn vai trò nhân chứng Thiên Chúa của mình giữa thế gian, Thiên Chúa đến gần họ không phải để cứu rỗi mà để lên án.
2) Địa vị cao cả và quan trọng của người Ki Tô hữu giữa trần thế như vậy được diển tả bằng trách nhiệm và bằng cách hành xử trung tín với sứ mạng của mình.
Trung tín với sứ mạng của Chúa Giêsu không chỉ có nghĩa là học thuộc làu những gì Chúa Giêsu dạy trong Phúc Âm và ôm ấp, nghiền ngẫm, “ suy niệm ” trong tâm hồn.
Người môn đệ, người tín hữu Chúa Ki Tô trung tính chu toàn trách nhiệm được giao phó cho giữa trần gian, “ anh em là muối cho thế gian”, “ anh em là ánh sáng cho thế gian ”, được Chúa Giêsu chỉ dạy một cách rõ ràng trong câu kết của đoạn Phúc Âm hôm nay:
- “ Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời ” (Mt 5, 16).
Người tín hữu Chúa Ki Tô chu toàn sứ mạng nhân chứng của mình, “ muối và ánh sáng thế gian ”, được giao phó trong phép rửa, bằng hành động:
- “…, để họ thấy những việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha anh em, Đấng ngự trên trời ”.
Hành động của người tín hữu Chúa Ki Tô, người môn đệ, không phải là hành động để phô trương khoát lát, nổi danh bên ngoài, như các người Pharisêu giả hình:
- “ Khi làm việc phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, sẽ chẳng được Cha của anh em trên trời ban thưởng…
Còn anh em khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm…
Khi cầu nguyện, hãy vào phòng đóng cửa lại và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh…
Còn anh khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chảy đầu cho thơm, để không ai thấy là anh đang ăn chay, ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo ” ( Mt 6, 1-18).
Như vậy nhân chứng của người môn đệ phải được thực hiện bằng hành động, không phải hành động để phô trương, mà là để liên đới và dâng tặng nhưng không, bất vụ lợi để mọi hành dộng của mình, dù là nhỏ mọn cũng làm cho diện mạo Thiên Chúa được hiện ra trước anh em:
- “ Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhứt của Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta vậy ” ( Mt 25, 40).
Cách hành xử liên đới giúp đở anh em bất vụ lợi là những gì được tiên tri Isaia diễn tả trong bài đọc thứ nhứt trong Thánh Lễ hôm nay, như là cử chỉ bác ái, để tâm đến người chung quanh, công bằng xã hội.
Đó là những cử chỉ làm cho nhân chứng của người môn đệ Chúa Giêsu trở nên sáng chói và trong ánh sáng, làm diện mạo Thiên Chúa được hiển hiện, Thiên Chúa được vinh danh.
Liên đới giúp đở anh em, nhứt là đối những người nghèo khỗ bất hạnh và “ hành động ” đem lại công bằng xã hội cho mọi người, sống như vậy, người tín hữu Chúa Ki Tô có thể kinh nghiệm cảm nhận được Thiên Chúa đang ở gần mình, trợ lực cho mình, như tiên tri Isaia đã loan báo:
- “ Cách ăn chay mà Ta ưa thích nhứt chẳng phải là thế nầy sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm.
Chẳng phải là chia cơm áo cho người đói, rước vào nhà những người không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục ” ( Is 58, 6-7).
Người môn đệ chứng nhân Thiên Chúa bằng hành động bác ái, liên đới, chống bất công xã hội, như cách hành xử được tiên tri Isaia mô tả, là người có Thiên Chúa luôn ở bên cạnh và trợ lực mình:
- “ Bấy giờ ngươi kêu lên, Thiên Chúa sẽ nhận lời; ngươi kêu cứu, Người liền đáp: Có Ta đây.
Nếu ngươi loại khỏi nơi ngươi ở gông cùm, cử chỉ đe dọa và lời nói hại người, nếu ngươi nhượng miếng ăn cho kẻ đói, làm thoả lòng người bị hạ nhục, thì ánh sáng ngươi sẽ chiếu toả trong bóng tối” ( Is 58, 9-10).
3) Biết rằng mình được Chúa thương yêu, nếu người tín hữu Chúa Ki Tô biết sống đại lượng phản ảnh lại tình thương của Thiên Chúa, “ thế gian ” sẽ nhận ra khuôn mặt Thiên Chúa yêu thương họ và ngợi khen, vinh danh Thiên Chúa.
Thế gian sẽ được biến đổi, được “ nêm ” bằng mùi vị của “ muối ” các môn đệ, trở thành môi trường đáng sống của con người trong hoà bình, công chính và tự do.
“ Là muối ” và “ánh sáng thế gian ” có nghĩa là sống và hành động bằng bác ái.
Đức bác ái đòi buộc người môn đệ Chúa Giêsu “ hành động”, không những bằng
“ chia cơm áo cho người đói, rước vào nhà những người không nơi trú ngụ, thấy ai mình trần thì cho áo che thân ”, mà còn bằng “ mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho những người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm” ( Is 58,6).
Câu nói vừa kể của tiên tri Isaia là câu diễn tả chính xác bổn phận phải có của người tín hữu Chúa Ki Tô, là “ muối và ánh sáng cho thế gian ”, nếu họ không muốn
- “ …chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi ” ( Mt 5, 13b).
Là câu nói để mỗi người chúng ta tự xét mình trước mặt Chúa, trong hiện trạng chúng ta đang sống, người tín hữu Chúa Ki Tô, không phân biệt thứ bậc hay phẩm trật giáo sĩ hay giáo dân.
Chúng ta tất cả là môn đệ Chúa Ki Tô, ngay từ lúc lãnh nhận phép rửa, là “ muối và ánh snág cho thế gian”.
Chúng ta có đang chu toàn sứ mạng môn đệ của chúng ta bằng hành động hay không, mỗi người hãy tự trả lời trước mặt Chúa:
- “ …, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời ” ( Mt 5, 16b).
Và sau cùng Thánh Phaolồ diễn tả cho chúng ta khuôn mẫu cách hành xử đích thực phải có của người tín hữu Chúa Ki Tô, trong thư gởi các tín hữu Corinto.
Người tín hữu Chúa Ki Tô là định điểm, là điểm tựa và là Đền Thờ nơi Thiên Chúa hiện diện, mạc khải chính Ngài và tình thương của Ngài cho mọi người, để mọi người sống thông hiệp với Ngài, nhận biết và tôn vinh Ngài.
Chu toàn sứ mạng đó, người tín hữu Chúa Ki Tô không ỷ lại vào khả năng và phẩm chất của mình, mà sống thân tình với Chúa và tin cậy, ủy thác cho quyền năng của Thánh Thần Thiên Chúa hành động nơi mình:
- “ Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lởi lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thánh Thần và quyền năng Thiên Chúa ” ( 1 Cor 2, 4).
Người tín hữu Chúa Ki Tô hành động đem lại bác ái và công lý cho anh em bằng quyền năng và sức mạnh của Chúa Thánh Linh, Thiên Chúa ban xuống trong tâm hồn chúng ta làm cho chúng ta có khả năng yêu thương anh em như chính Ngài đã yêu thương chúng ta.
Như vậy, qua những gì Thánh Phaolồ dạy các tín hữu Corinto, trung thành với sứ mạng truyền giáo của mình, là tuân phục để cho Chúa Thánh Linh hành động nơi mình: chính Ngài biết cách xử dụng các đặc tính và khả năng của chúng ta để biến hóa một thế giới tốt đẹp hơn cho anh em chúng ta.