SUY NIỆM PHÚC ÂM ( IV A 4 ), ( 12.12.2010); ( Mt 11, 2-11)
CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG, NĂM A
NGUYỄN HỌC TẬP
Chân dung Gioan Tẩy Giả là điểm nổi bậc trong Mùa Vọng và sự liên hệ của ngài với Chúa Giêsu là chủ đề của đoạn Phúc Âm Thánh Lễ Chúa Nhật hôm nay.
Phúc Âm Thánh Matthêu, có lẽ còn hơn cả Phúc Âm Thánh Luca, đặt trọng tâm làm sáng tỏ mối liên hệ giữa Gioan Tẩy Giả và Chúa Giêsu, căn tính và sứ mạng của các vị.
Để xác tín điều đó, Thánh Matthêu dừng lại đôi chút trong lúc Gioan chưa bị Erode xử trảm và trong lúc còn đang bị giam ở trong pháo đài Macheronte, ông có nghe nói đến các động tác của Chúa Giêsu.
Trong bối cảnh đó, chúng ta hiểu được đây là thời điểm hoạt động của Chúa Giêsu, nhưng ảnh hưởng của Gioan cho đến lúc đó vẫn còn được dân chúng cảm nhận mạnh mẽ. Thời gian của Gioan là những gì đang khép lại, thời gian lâu dài của loạt các ngôn sứ được Chúa sai đến được đóng lại, trong khi đó thì thời gian của Chúa Giêsu là thời gian Nước Trời, đang được mở ra với viễn tượng mới mẻ.
1 - Đích thực Thầy là người mà chúng tôi mong đợi chăng ?
Từ bối cảnh đoạn văn các sứ giả được Gioan sai đến với Chúa Giêsu, mặc nhiên chúng ta có thể rút ra kết luận rằng ngay cả Gioan cũng không tránh khỏi mối nghi ngờ đang lòn lách đó đây trong trái tim ngài, từ mối lo sợ mình đang bị lầm lẫn trong hy vọng và đưa đến việc còn phải khởi công tìm kiếm lại từ đầu.
Nhưng Gioan không phải là người sống các biến cố " thử coi ra sao ", mà là người hoàn toàn dấn thân chọn lựa sống như Chúa muốn trong mỗi giây phút của cuộc đời. Ngài là người đã luôn luôn liên kết với Chúa, đã tìm kiếm Chúa bằng cuộc sống trên sa mạc và ngay từ lúc còn trong dạ mẹ Elisbeth, Gioan đã cảm nhận được sự hiện diện của Chúa, khi Mẹ Maria đến thăm mẹ mình ( Lc 1, 39-45).
Nhưng rồi đến lúc bị cô lập trong nhà tù Macheronte, ông cảm thấy tâm hồn mình đang bị một cơn khủng hoảng u ám đe doạ: biết đâu mình đã không sai lầm khi xác nhân và chỉ cho dân chúng "
- " Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian " ( Jn 1, 29).
Những lúc đa nghi, chao đảo trong cuộc sống, ai cũng có. Nhưng đức tin của Gioan mãnh liệt hơn, lướt thắng mối nghi nan của ngài.Bởi đó thay vì thoi thóp, chờ đợi, suy nghĩ và bàn cải không biết đến chừng nào và kết quả ra sao, ngài sẵn sàng xác nhận bằng lý chứng, phương thức mà ngài nghĩ rằng theo đó Thiên Chúa hành động. Bởi đó Gioan sai môn đệ mình đến với Chúa Giêsu xin Người ánh sáng và trợ lực cho đức tin của mình.
Gioan là tiếng nói chỉ đường cho dân chúng, trong lúc bị cô lập và cô đơn với tâm hồn rối loạn đó, cho chúng ta hiểu được câu hỏi của ngài được môn đệ chuyển đến Chúa Giêsu, không phải chỉ là một câu hỏi " vô thưởng vô phạt ", hỏi để mà hỏi, mà là câu hỏi hàm chứa trong đó lời khẩn xin giúp đỡ:
- " Thưa thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến, hay chúng con còn phải đợi ai khác ? " ( Mt 11, 2).
Như vậy Thánh Matthêu cho chúng ta biết chân dung của ngôn sứ Gioan đang bị tù, không tự chế ra câu trả lời theo ý kiến và ước vọng của mình, mà là khiêm nhường xin được soi sáng.
Và Chúa Giêsu cho ngài biết rằng những gì đang xảy ra trong công cuộc loan báo Nước Trời của Người:
- " ...kẻ nghèo được loan báo Tin Mừng " ( Mt 11, 5).
2 - Câu trả lời của Chúa Giêsu.
Trong câu trả lời của Chúa Giêsu cho các môn đệ được Gioan phái đến không có một lời nói thoáng qua nào cho thấy Người khiển trách ông. Đúng hơn là một lời loan báo làm cho chính người tù nhân của vua Erode cũng trở thành một trong " những kẻ nghèo được loan báo Tin Mừng ":
- " Chúa Giêsu trả lời: " Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: " Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được loan báo Tin Mừng " ( Mt 11, 4-6).
Câu trả lời của Chúa Giêsu không làm cho ai có thể lầm lẫn được bản chất của Phúc Âm.
Nếu theo quan niệm trần tục, " Tin Mừng " là lời loan báo cuộc chiến thắng quân sự, một cuộc khải hoàn, thì " Tin Mừng " mà Chúa Giêsu đem đến là cách thức mà Thiên Chúa chiến thắng khải hoàn, không phải là tiêu diệt vĩnh viễn quân thù, cũng phải lả lá áp đặt quyền lực mà không gì và không ai có thế " phản động " được.
Tin mừng của Nước Trời là trao trả lại một cuộc sống nhân loại xứng đáng với nhân phẩm con người của mình, như các hình ảnh được tường thuật lại các phép lạ và nói lên phẩm giá và địa vị con người trong Nước Trờ:
- " người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, người chết sống lại, kẻ nghèo được biết Tin Mừng ".
Câu Phúc Âm kể lại các phép lạ Chúa Giêsu đã thực hiện, còn có một ý nghĩa sâu đậm khác, đó là liên tưởng đến các lời ngôn sứ Isaia về thời cánh chung, trong đó con người được giải thoát khỏi các bất hạnh của mình.
Đó là cuộc giải thoát, trả lại cho con người phẩm giá đích thực của mình, được dựng nên " giống hình ảnh Thiên Chúa ", " giống như Thiên Chúa " ( Gen 1, 26.27).
Hình ảnh Nước Trời vừa kể của Chúa Giêsu khác xa với hình ảnh Đấng Cứu Độ là vị quan toà liêm chính và nghiêm khắc mà Gioan Tẩy Giả đã rao giảng trên sa mạc và bên bờ sông Giordano:
- " Tay Người cầm nia, Người rẻ sạch lúa trong sân: lúa thóc tốt thì cho vào kho lẫm, còn lúa thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi " ( Mt 1, 12).
Chính thái độ chăm lo cho người nghèo, người bị loại ra bên lề xã hội của Chúa Giêsu, là dấu chỉ không thể sai lầm đặc tính chính thức của tác động cứu thế của Chúa Giêsu.
Nhận biết dấu chỉ đó của thời kỳ cứu độ đã đến, hiển nhiên đời buộc phải có thái độ ăn ở tương xứng, tức là phải trở nên bé nhỏ, thấp hèn đối với mọi người , chỉ cần được Chúa giúp đỡ.
Trước câu hỏi Người có phải là Đấng Cứu Thế phải đến không, Chúa Giêsu không trả lời phải hay không cho các môn đệ ông Gioan. Nhưng Người mời gọi Gioan hãy quyết định theo những gì các người được phái đến sẽ tường thuật lại họ đã thấy và đã nghe:
- " Các anh cứ về thuật lạu cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe..." ( Mt 11, 4).
Điều đó có nghĩa cả ông Gioan cũng phải có quyết định đức tin đối với Nước Trời và đức tin không thể có hay không chỉ dựa vào những gì " nghe kể lại ", " thiên hạ đồn rằng ", mà phải được chính mình quyết định.
Đàng khác Tin Mừng là những gì liên quan nhứt là đối với những ai nghèo hèn, và ông Gioan không thể không phải là một trong những người giữa họ. Ông đã bỏ tất cả để sống trong sa mạc, và còn một ít nữa ông cũng sẽ bỏ cả mạng sống mình vì bị vua Erode ra lệnh chém đầu ( Mt 14, 3-12), Gioan đã từ bỏ đi các dự án của cuộc sống mình, để đón nhận thánh ý Chúa, làm sứ giả cho Người.
Như vừa đề cập, cả Gioan cũng phải quyết định về con đường đức tin của mình, bởi đó Chúa Giêsu kết thúc buổi nói chuyện củă Người với các sứ giả của Gioan Tẩy Giả bằng bằng một lời tuyên bố long trọng:
- " Phúc thay cho người nào không vấp ngã vì Ta " ( Mt 11, 6).
Điều đó cho thấy không ai có thể có được đức tin, nếu không phải đối đầu với những chướng ngại vật vật và các bước đường chông gai cản trở, không phải đối phó với các cơ hội có thể làm cho mình phải vấp ngã.
Đức tin không thể có được bằng cách suy tư diễn dịch, dựa trên các yếu tố xác thực như toán học, các dấu chứng vật lý hiển nhiên.
Đúng hơn có được đức tin, khi tâm hồn sẵn sàng biết lắng nghe và nhận biết minh là kẻ nghèo khổ yếu hèn, cần được Chúa giúp đỡ, giải thoát và trợ lực.
Như chúng ta có thể trực giác được Gioan Tẩy Giả chịu tử đạo như thế nào. Ngài là một người nghèo khó, nhẫn nại bước đi trên con đường đức tin. Bởi đó ngài không " vấp ngã ", không lấy gì làm gương mù gương xấu đối với Chúa Giêsu, nhưng biết canh tân những ước muốn mong đợi của mình dựa trên biến cố Chúa đang đến, bằng cách tăng thêm niềm hy vọng của mình.
Hiểu được như vậy, chúng ta hiểu được tại sao khi các sứ giả của ông Gioan đã cáo từ ra đi, Người không bàn luận lên án ông Gioan như là kẻ cứng tin, phải sai sứ giả đến để tìm chứng cớ. Trái lại Người biết tâm hồn của Gioan, nên không tiết lời ngợi khen ngài:
- " Ta nói thật với anh em: trong số những người lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả " ( Mt 11, 11).
3 - Nhân chứng của Chúa Giêsu về Gioan Tẩy Giả.
Khi các sứ giả của Gioan ra đi, Chúa Giêsu nói với đám đông lúc đó bằng cách hỏi họ theo họ Gioan Tẩy giả là ai, mà trước đây họ đến với ông ?
Như trước đây để trả lời cho các sứ giả của Gioan, Chúa Giêsu dùng cử chỉ và thái độ rao giảng Tin Mừng của mình, giờ đây Chúa Giêsu liệt kê ra cách sống của Gioan, một cuộc sống hoàn toàn chính đáng, xa lánh mọi cám dỗ quyền lực và thích khoe khoan danh dự được mọi người tôn trọng, kính nể:
- " Đúng vậy, Ta nói cho anh em biết, đây còn hơn cả sứ giả nữa. Chính ông là người Thánh Kinh đã nói tới khi chép rằng. Nầy Ta sai sứ của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến " ( Mt 11, 9-10).
Nói một cách ngắn gọn Chúa Giêsu muốn cho những ai nghe Người hôm đó xác nhận được căn tính thần học của Gioan, cho biết rằng trên thực tế chính Gioan là vị thúc đẩy họ đến với Người.
Với lời trích dẫn vừa kê, Chúa Giêsu nói lên với hai mục đích: trước hết là xác nhận Gioan Tẩy Giả là vị tiền hô và nói lên căn tính của mình là Đấng Thiên Chúa sai đến, như vậy Người là Con Thiên Chúa, Đấng mà các lời ngôn sứ của Gioan đã tiên báo và con đường mà Gioan phải lo dọn, chuẩn bị trước, chu toàn sứ mạng của ngài là con đường mà Chúa Giêsu đang đi.
Trong nhãn quan vừa kể, chúng ta có thể đọc lại hai đoạn Cựu Ước liên hệ:
- " Dần dần Ta sẽ đuổi chúng đi cho khuất mắt ngươi, cho đến khi ngươi sinh sản ra nhiều, mà thừa hưỏng xứ nầy " ( Ex 23, 30).
- " Người sẽ ngồi để luyện kim tẩy bạc; Người sẽ thanh tẩy con cái Levi và tinh luyện chúng như vàng, như bạc " ( Ml 3, 3).
Ở đây Thánh Matthêu nhấn mạnh đến lời tiên tri đã được thực hiện, bởi đó Gioan Tẩy Giả hiện diện trong sứ điệp được Cựu Ước loan báo: " ...đây còn hơn cả sứ giả nữa. Chính ông là người Thánh kinh đã chép...".
Và Chúa Giêsu chính là Đấng mà vị tiền hô đã loan báo trong sứ điệp của ngài.
4 - Kẻ nhỏ nhứt trong Nước Trời.
Chân dung của Gioan nổi bậc vì đời sống luân lý và tôn giáo của ngài:
- " Ta nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả " ( Mt 11, 11a).
Nhu vậy theo lời chuẩn định của Chúa Giêsu, Gioan là người cao cả giữa loài người, hay hiểu theo cách diễn tả của ngôn từ Do Thái,
Gioan là người cao cả nhứt ( bởi lẽ trong tiếng Do Thái không có cách so sánh ở trạng thái tuyệt đối ( absolu).
Hơn nữa, Thánh Matthêu còn xác nhận quả quyết bằng trạng từ " Amen ! " ( Thật, Ta nói thật ).
Nhưng giá trị cao cả của Gioan Tẩy Giả cũng chưa có thể so sánh được với địa vị của những ai thuộc về Nước Trời:
- " Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhứt trong Nước Trời, còn cao trọng hơn ông " ( Mt 11, 11b).
Nói lên như vậy, Chúa Giêsu có ý cho chúng ta biết so sánh giữa hai thời kỳ của tiến trình cứu rổi, giữa thời kỳ của Lề Luật - lời các tiên tri và thời gian của Nước Trời, thời kỳ hoàn hảo, thời kỳ ân phúc dư tràn, bởi đó người môn đê của Nước Trời được hưởng dư tràn ân phúc, làm cho mình trổi thượng hơn cả Gioan Tẩy Giả, là người cao cả nhứt trong các con người của thời Cựu Ước.
Câu xác quyết vừa kể của Chúa Giêsu không có ý nói rằng Gioan không có thể hay không phải là một môn đệ của Nước Trời, mà để cho chúng ta biết rằng mỗi con người của Nước Trời được thực hiện là con người được tràn đầy ơn Chúa đổ xuống cho, là Đấng đang hiện diện nơi Chúa Giêsu.
Nói cho cùng, không ai có thể đến được với Thiên Chúa, nều Chúa không muốn tỏ mình ra cho người ấy gặp được.
Như vậy, Chúa Giêsu là Thiên Chúa, đã đến làm cho nhân loại gặp được mình, khởi đầu từ những kẻ nghèo hèn, bé mọn, không trừ bất cứ ai, ai cũng có thể gặp được Thiên Chúa trong tình yêu đầy tràn của Người trong Nước Trời, đã bắt đầu hiện diện với Chúa Giêsu giữa họ, nơi trần thế.