Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Đinh Văn Tiến Hùng
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm BÙI NINH, Gp Bùi Chu
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  Suy Niệm & Cầu Nguyện
HÔM NAY, CON SẼ ĐƯỢC Ở VỚI TA TRÊN THIÊN ĐÀNG

 

SUY NIỆM PHÚC ÂM ( III C 55 ) ; ( 21.11.2010); ( Lc 23, 35-43)

CHÚA NHẬT LỄ CHÚA GIÊSU VUA VŨ TRỤ

NGUYỄN HỌC TẬP

 

Đoạn tường thuật của Phúc Âm Thánh Luca hôm nay có thể được chia theo ý nghĩa lời nói của những hạng người nhạo bán Chúa Giêsu hôm đó:

- các thủ lãnh dân chúng: " Dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: Hắn đã cứu người khác,  thì hãy cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Ki Tô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn" ( Lc 23, 35). 

- kế đến là nhóm lính tráng: " Lính tráng cũng chể giễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống và nói: Nếu ông là vua dân Do Thái, thì hãy cứu lấy mình đi" ( Lc 23, 36-37). 

- và sau cùng là lời lẽ của những người trộm cướp: " Ông không phải là Đấng Ki Tô sao? Hãy tự cứu lấy mình đi và cứu cả chúng tôi... Mầy đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mầy cũng không biết sợ...Lạy Chúa Giêsu, khi Chúa vào Nước của Chúa, xin Chúa nhớ đến con..." ( Lc 23, 39-42).

- và sau cùng là lời hứa của Chúa Giêsu: " Hôm nay, con sẽ được ở với Ta trên Thiên Đàng" ( Lc 23, 43). 

 Cả ba phần của đoạn Phúc Âm đều có một đặc điểm chung, đó là trong cả ba đều dùng động từ "  cứu lấy "
   - " ...thì hãy cứu lấy mình đi...".

Động từ vừa kể, do đó trở thành từ ngữ chính yếu để nói lên căn tính ( identité) của nhân vật chính mà cả ba nhóm người chế nhạo, làm sỉ nhục. Đó là Chúa Giêsu Đấng Cứu Thế.

Chỉ có trong Phúc Âm Thánh Luca, đoạn kể lại cuộc thương khó của Chúa Giêsu, lúc Người chịu đóng đinh, làm nổi bâc lên thái độ của đám dân chúng hiện diện, không tham gia vào các lời nói chế giễu, sỉ nhục, mà chỉ đứng " nhìn " cảnh tượng đang diển ra trước mắt:

   - " Dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo" ( Lc 23, 33).

Động từ  đứng " nhìn " không có phản ứng vừa kể của dân chúng, được Thánh Luca ghi lại, không có ý nghĩa nói lên thái độ tàn nhẫn, dững dưng, tâm thần bệnh hoạn, đứng đó để " nhìn ", chứng kiến cảnh tượng cảnh khốn nạn, cực hình của người khác, cho bằng " nhìn " để tìm hiểu ý nghĩa thâm sâu của những gì đang xảy ra, cùng một tâm trạng của những người thân của Chúa Giêsu:

   - " Đứng đàng xa, có tất cả những người quen biết Chúa Giêsu, cũng như những phụ nữ theo Người từ Galilea, các bà đã " chứng kiến" những việc ấy " ( Lc 23, 48).  

1 - Trước hết là điều kiện được các thủ lãnh dân chúng đặt ra:

   - " Hắn đã cứu người khác, thì hãy cứu lấy mình đi...nếu thật hắn là Đấng Ki Tô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn" ( Lc 23, 33), có thể được hiểu là dấu chứng của Đấng Cứu Thế: nếu ông ấy là Đấng Cứu Thế, hãy chứng tỏ cho mọi người xem bằng cách xuống khỏi thập giá, để tự cứu lấy mình.

Nhưng dù sao đi nữa, chính các thủ lãnh cũng thú nhận rằng Chúa Giêsu đã cứu chữa những người khác, " hắn đã cứu người khác...". Dầu vậy, động tác " đã cứu người khác" đó cũng chưa đủ để được chấp nhận là Đấng Cứu Thế.

Đối với họ, không phải ai " cứu lấy người khác", mà ai có khả năng giải thoát lấy mình, mới là người đáng được chấp nhận cho tước hiệu Đấng Cứu Thế: " ...hãy tự cứu lấy mình đi..., nếu thật hắn là Đấng Ki Tô của Thiên Chúa" ( Lc 23, 35).

Lối nói  thách thức " hãy tự cứu lấy mình đi " cũng được thốt lên trong trong các lời sỉ nhục của nhóm lính tráng và người trộm dữ.  

Lối thách thức đó gợi cho chúng ta nhớ lại lời thách thức của qủy dữ cám dỗ Chúa Giêsu trong sa mạc, thách thức Chúa Giêsu hãy xử dụng quyền bính của chính mình và cả thực thể Con Thiên Chúa của mình, để giải quyết được những lợi thú và nhu cầu cá nhân của mình:

- " Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy truyền cho hòn đá nầy trở nên bánh đi"

- " Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đừng dậy mà gieo mình xuống đi. Vì có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên thần gìn giữ bạn. Lại còn chép rằng: Thiên sứ sẽ tay đở, tay nâng cho bạn khỏi vấp chân vào đá" ( Lc 4, 3.9-10).

Nhưng cũng như đối với qủy dữ trong sa mạc, trong đọan Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu đang bị treo trên thập giá, Người cũng không nhường bước trước những cơn thách thức cám dỗ, mà hoàn toàn phó thác vào thánh ý Chúa Cha, tuân phục chương trình cứu rỗi của Ngài .

Đó là cách sống mà chính Chúa Giêsu đã dạy chúng ta, người tín hữu Chúa Ki Tô, sống hoàn toàn phó thác và tin cậy vào Thiên Chúa là Cha chúng ta:

- " Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình,thì sẽ mất; còn ai liều mạng sống mình vì Ta, thì sẽ cứu được mạng sống ấy " ( Lc 9, 24).

Cuộc thách thức của những nhóm người hôm nay, cũng như cuộc thách thức của qủy dữ trong sa mạc, gợi cho chúng ta nhớ lại lòng cứng tin của các người đồng hương Chúa Giêsu, lúc Người mới khởi sự ra đi giảng dạy, khi Chúa Giêsu đọc được trong tâm thức của họ câu tục ngữ:

- " Thầy lang ơi, hãy chữa lấy minh đi" ( Lc 4, 23).

Tất cả những gì được đề cập cho thấy mặc cho bao nhiêu phép lạ họ được chứng kiến, " hắn đã cứu lấy người khác...", bao nhiêu lời giảng dạy được nghe, các người đồng hương của Chúa Giêsu, người trộm dữ, lính tráng và nhứt là các thủ lãnh dân chúng cũng không có thái độ nào thay đổi đối với Chúa Giêsu: họ không có khả năng để lắng nghe và " nhìn thấy " những gì đã xảy ra, để chấp nhận và vâng theo những gì Chúa Giêsu dạy bảo cho.

Đó là thái độ đóng kín, lòng chai dạ đá, ngược lại những gì người tín hữu Chúa Ki Tô được mời gọi để sống xứng đáng với tên gọi của mình. 

2 - Các lời phỉ báng của lính tráng ( Lc 23, 36-37) đối với Chúa Giêsu, không mang tính cách tôn giáo như những gì các thủ lãnh dân chúng nêu ra để làm nhục Người,

   - " nếu thật hắn là Đấng Ki Tô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn" ( Lc 23, 35), nhưng mang đặc tính chính trị hơn:

   - " Nếu ông là vua dân Do Thái..." ( Lc 23, 37).

Tính cách khác biệt giữa hai cách thách thức và phỉ bán của thủ lãnh dân chúng và nhóm lính tráng, khác biệt giữa đặc tính tôn giáo và chính trị, cũng làm chúng ta nhớ lại những gì qủy dữ đã thử thách Chúa Giêsu trong sa mạc.

Qủy dữ thử thách Chúa  Giêsu về quyền lực chính trị, vương tước dân nước cho Chúa Giêsu:

   - " Ta sẽ cho ông toàn quyền cai trị, cùng với vinh hoa , lợi lộc của các nước ấy, vì quyền hành ấy được trao cho ta, và ta muốn cho ai tùy ý" ( Lc 4, 6),

Và kế đến qủy dữ thách thức Người về phương diện tôn giáo:

   - " Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy đứng dậy mà gieo mình xuống đi...Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ giữ gìn bạn...Thiên sứ sẽ tay đở, tay nâng bạn khỏi vấp chân vào đá" ( Lc 4, 9-12).

Rồi kể cả thái độ của lính tráng cũng là cách thức sỉ nhục cho Chúa Giêsu, khi họ lấy giấm trao cho Người uống.

Nhưng thái độ làm cho những ai hiện diện nhớ lại hình ảnh người công chính chịu đau khổ nơi con người Chúa Giêsu đang hiện diện trước mặt, như những gì Thánh Vịnh đã tiên báo:

   - " Thay vì đồ ăn, chúng trao mật đắng, còn khát nước, lại cho uống giấm chua" ( Ps 69, 22).

Cũng vậy, bản viết đặt trên đầu thập giá, không nói lên lý do tại sao người tử tội bị lên án, cho bằng là một hành động sỉ nhục khác:

   - " Đây là vua dân Do Thái ". 

Trong phần cuối của đoạn Phúc Âm hôm nay, trước những lời chế nhạo của người trộm dữ, người trộm lành trả lời bác bỏ:

   - " Ông không phải là Đấng Ki Tô sao, hãy tự cứu lấy mình đi và cứu cả chúng tôi với..."

  - " Mầy đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mầy cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế nầy là đích đáng, vì xứng với việc chúng ta làm. Chứ Người đâu có làm điều gì trái" ( Lc 23, 39-41).

Trong câu trả lời phản bác vừa kể, chúng ta thấy được lòng tin của người trộm lành.

Trước hết anh nhận ra Chúa Giêsu là Thiên Chúa, " vậy mà cả Thiên Chúa, mầy cũng không biết sợ !".

Anh ý thức được rằng con người đang bị đóng đinh bên cạnh mình là Thiên Chúa.

Kế đến, anh cũng nêu lên xác tín của anh đối với tình trạng vô tội của Người, " Chứ Người đâu có làm điều gì trái".

Đó là cử chỉ không những chống lại những lời bất kính của người bạn trộm cướp của mình, mà cũng là cử chỉ bác bỏ các câu nói thách thức, sỉ nhục của các đám người vây quanh thập giá Chúa Giêsu lúc đó.

Cử chỉ thứ hai của anh đối với Chúa Giêsu là xác tín, lập lại những gì tổng trấn Ponzio Pilato đã phán quyết trước đó, khi họ nộp Chúa Giêsu cho ông:

  - " Nhưng ông ấy đã làm điều gì ác? Ta xét thấy ông ấy không có tội gì đáng chết ..." ( Lc 23, 22).

Và với ý thức nhận ra được Chúa Giêsu là Thiên Chúa, anh kêu gọi người bạn tội lỗi của mình hãy thống hối, trước mặt Chúa Giêsu là Thiên Chúa đang hiện diện, bằng lời trách móc người bạn, để gợi lên tâm tình tôn giáo của anh ta:

   - " Mầy đang chịu một hình phạt. Vậy mà cả Thiên Chúa mầy cũng không biết sợ !" ( Lc 23, 40).

Và rồi với ý thức nhận ra được Chúa Giêsu là Thiên Chúa trước mặt mình, anh quay sang Chúa Giêsu và cầu nguyện với Người:

  - "  Lạy Chúa Giêsu, khi Chúa vào Nước Chúa, xin Chúa nhớ đến con" ( Lc 23, 42) 

[ Rất tiếc, không biết tại sao dịch giả Việt Ngữ không nhận thấy được mối tương quan đó, mối tương quan giữa cử chỉ tuyên xưng đức tin Chúa Giêsu, con người đang bị treo trên thập giá đó là Thiên Chúa, qua câu nói:

  - " Mầy đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mầy cũng không biết sợ" ( Lc 23, 40).

Và như vậy động tác hữu lý kế đến của con người tội lỗi, yếu hèn trước mặt Chúa, phải là câu nói khiêm nhượng, hạ mình, cúi đầu để cầu nguyện:

  - " Lạy Chúa Giêsu, khi Chúa vào Nước Chúa, xin Chúa nhớ đến con" ( Lc 23, 42),

Chớ không phải là kiểu nói như bản dịch Việt Ngữ bất kính:

  - " Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi ! " (Lc 23, 42) ( Thánh Kinh Trọn Bộ, NXBTPHCM 1998, trg.1995).

Có thể bản văn Ý Ngữ:

 - " Gesù, ricordati di me quando entrerai nel tuo regno" ( La Bibbia di Gierusalemme, EDB, Bologna 1986, 2253).

Và bản  Pháp Ngữ:

 - " Jésus, souviens - toi de moi, quand tu viendras dans ton royaume" ( La Sainte Bible, L'École biblique de Jérusalem, Cerf, Paris 1961, 1387).

Người ngoại quốc có thể xưng " tu - me", " toi - moi " với Chúa là cách nói thân thiện, nhưng người Việt chúng ta không thể xưng " mầy - tao" với những Đấng Bậc cao trong, càng không thể xưng như vậy đối với Thiên Chúa.

Cũng như không có lý do gì khi đối thoại với Chúa, gọi Chúa bằng " ông" và xưng mình là " tôi":

   - " Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước ông, xin nhớ đến tôi",  mà phải kính trọng xưng hô:

   - " Lạy Chúa..., xin Chúa nhớ đến con".

Hay là dịch giả Việt Ngữ không nhận ra hay không muốn nhận Chúa Giêsu là Thiên Chúa?. Mỗi dân tộc có cách diển tả và xưng hô của mình, diển tả và xưng hô không đúng cách, một đôi khi cũng có thể hiểu là bất kính hay không có đức tin ]. 

3 - Lời cầu nguyện của người trộm lành cũng là câu trả lời gián tiếp cho những câu nói sỉ nhục của các thủ lãnh dân chúng và của nhóm lính tráng, nói lên vương tước đích thực của Chúa Giêsu:

   - " Lạy Chúa Giêsu, khi Chúa vào Nước Chúa, xin Chúa nhớ đến con".

Lời cầu nguyện của người trộm lành là lời cầu nguyện ước mơ, không xác định trong thời gian, bởi lẽ anh không biết lúc nào Chúa Giêsu sẽ vào Nước của Người, " ...khi Chúa vào Nước Chúa, xin Chúa nhớ đến con".

Tuy nhiên cũng là lời cầu nguyện nói lên lòng tin cậy chắc chắn việc đó sẽ xãy ra, " khi Chúa vào Nước Chúa". 

Tâm tình đó của người trộm lành phát xuất từ truyền thống dân tộc Do Thái, luôn luôn tin tưởng rằng Nước Thiên Chúa sẽ thể hiện sự cứu rổi trong lịch sử và Thiên Chúa hoàn toàn quyền năng cai quản lịch sử.

Lời cầu nguyện của người trộm lành nói lên ý nghĩa đối ngược lại với suy nghĩ của những nhân vật trong hai nhóm người trước đó, khi họ sỉ nhục Chúa Giêsu.

Đối với những người đó, vương tước của Chúa Giêsu được coi như gắn liền với việc hành xử quyền lực, để chứng tỏ uy thế của chính mình và tự mình có thể định đoạt lấy cuộc sống của mình:

   - " ...cứu mình đi, nếu thật hắn là Đấng Ki Tô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn" ( Lc 23, 35),

   - " Nếu ông là vua dân Do Thái, thì hãy cứu lấy mình đi..." ( Lc 23, 37).

Trái lại, đối với người trộm lành, vương tước của Chúa Giêsu, là Thiên Chúa, được chứng tỏ vì Người có khả năng ban ơn cứu độ:

   - " Lạy Chúa Giêsu, khi nào Chúa vào Nước Chúa, xin Chúa nhớ đến con" ( Lc 23, 42).

Đó là thái độ khiêm nhường của con người, nhận biết mình tội lỗi, bất xứng trước mặt Chúa, chỉ dám xin Chúa thương xót cứu lấy mình, chớ không có thái độ thử thách, thách thức để Đấng Cứu Thế tỏ ra, làm phép lạ ngoạn mục để giải thoát mình trong cuộc sống đời nầy.

Để trấn an và củng cố đức tin của người trộm lành, Chúa Giêsu không để cho tầm mắt của anh phóng về tương lai vô định, không biết chừng nào,

   - " Lạy Chúa Giêsu, khi Chúa vào Nước Chúa...", mà là ngay hôm nay, anh đã được cứu rỗi, khi anh liên hệ thông giao với Người:

   - " Ta bảo thật con, hôm nay con sẽ được ở với Ta trên Thiên Đàng" ( Lc 23, 43).

Thánh Luca dùng trạng từ thời gian tính " hôm nay ", không phải với ý nghĩa theo từ ngữ, cho bằng để nói lên đồ án cứu rỗi của Thiên Chúa " đã và đang " thể hiện như cơn lốc vào lịch sử con người:

   - " Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua David. Người là Đấng Ki Tô của Thiên Chúa" ( Lc 2, 11),

   - " Hôm nay đã ứng nghiệm lời Thánh Kinh qúy vị vừa nghe " ( Lc 4, 21),

   - " Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà nầy, bởi người nầy cũng là con tổ phụ Abraham" ( Lc 19, 9).

Như vậy, " hôm nay " có nghĩa là cùng với sự hiện diện của Chúa Giêsu, thời gian cứu rỗi đã bắt đầu, ơn cứu rỗi đã đến cho mọi người, chỉ cần biết đón nhận và dự phần.

Hiểu như vậy, người trộm lành không cần phải chờ đến " ...khi Chúa vào Nước Chúa ", mà ngay trong lúc anh phát ra những lời cầu nguyện trên, anh đã tham dự vào Nước Chúa,

   -  " Ta bảo thật con, hôm nay con sẽ được ở với Ta trên Thiên Đàng". 

Nhưng câu trả lời của Chúa Giêsu cho anh không những chỉ nói lên

   - " Hôm nay, anh sẽ được ở trên Thiên Đàng..." ( Lc 23, 43),

mà là ở trên Thiên Đàng với Chúa Giêsu:

   - " Hôm nay, anh sẽ được ở với Ta trên Thiên Đàng".

Như vậy, bất cứ ở đâu có Chúa Giêsu, và bất cứ nơi đâu chúng ta ở với Chúa Giêsu,  " ở với Ta", là ở đó có Thiên Đàng.

Chúng ta, người tín hữu Chúa Ki Tô, mỗi người chúng ta đều có thể lập lại lời Chúa Giêsu nói với người trộm lành, như là lời nói với từng người một, từ ngày chúng ta nhận phép Rửa Tội, bởi lẽ từ ngày đó, chúng ta được thông hiệp với Chúa Giêsu, " ở với Ta".

Ngay từ ngày nhận Phép Rửa, chúng ta đã và đang sống thông hiệp với Chúa Giêsu trong ân sủng Người.

Tác giả:  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!