Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Đinh Văn Tiến Hùng
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  GH. Đồng Trách Nhiệm
NGƯỜI TÍN HỮU GIÁO DÂN TRONG CÔNG ĐỒNG VATICAN II ( PHẦN II ).

( Tư tế, Tiên Tri và Vương Giả)   

NGUYỄN HỌC TẬP 

Một khi đã xác nhận người tín hữu giáo dân là thành phần Cộng Đồng Dân Chúa, là phần Thân Thể Mầu Nhiệm Chúa Giêsu, tham dự vào ba tước vị của Người, tư tế, tiên tri và vương giả, phần I,  cần phải xác định tham dự thế nào và có sự khác biệt nào giữa sự tham dự của họ, khác với sự tham dự của hàng giáo phẩm, nhứt là trong tước vị tư tế.

 

A- Tư Tế.

Vấn đề được đặt ra là sự khác biệt giữa thiên chức tư tế chung ( comune) của các thành phần trong Cộng Đồng Dân Chúa và thiên chức tư tế thừa tác vụ (ministérielle) của hàng giáo phầm.

Chương II của Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân ( Lumen Gentium, LG ) đề cập đến vấn đề đang bàn ở số 10.

   *Trước tiên Hiến Chế LG, qua những trích dẫn Tân Ước, nói lên tước vị tư tế của mọi tín hữu Chúa Ki Tô ( giáo sĩ cũng như giáo dân), với đặc tính liên quan đến đời sống trước khi liên quan đến động tác tế tự:  

- " Thật vậy, những người chịu phép rửa, qua biến cố tái sinh và được Chúa Thánh Thần xức dầu, họ được thánh hoá để trở nên nơi cư ngụ thiên  thánh và biến thành tư tế thánh thiện, để qua các tác động Ki Tô hữu của họ, họ dâng lên Chúa những của lễ thiên thánh và loan báo những kỳ công của Đấng từ bóng tối đã gọi họ vào ánh sáng diệu huyền" ( LG II, 10). 

   * Kế đến, Hiến Chế LG đề cập đến sự khác biệt giữa thiên chức tư tế chung của mọi tín hữu và chức tư tế thừa tác vụ của hàng giáo phẩm: 

- " Chức tư tế chung ( comune  ) của các tín hữu và chức tư tế thừa tác vụ ( ministérielle) hay tư tế phẩm trật, mặc dầu khác biệt nhau tự bản chất chớ không phải khác nhau về thứ bậc, cả hai đều được thiết lập liên đới nhau: thật vậy, mỗi thiên chức tùy theo cách hành xử của mình, nhưng cả hai đều cùng tham dự vào chức tư tế duy nhứt của Chúa Ki Tô" ( LG 2, id.). 

 Sự khác biệt đó được gọi là quyền năng, qua đó chức tư tế thừa tác vụ được giao cho phận vụ:

- xây dựng và hướng dẫn Cộng Đồng Dân Chúa tư tế,

- tác động dâng hiến Thánh Thể nhân danh Chúa Ki Tô.

- và dâng hiến Thánh Thể nhân danh Cộng Đồng Dân Chúa.

Nhưng dù cho có sự khác biệt tự bản thể, chức tư tế chung của các tín hữu cũng như chức tư tế thừa tác vụ của hàng giáo phẩm đều được đặt trên một nền tàng chung, trên chức tư tế của Chúa Ki Tô mà mọi thành phần dân Chúa đều tham dự, tín hữu cũng như thừa tác viên.

Như vậy, chức tư tế chung không phải chỉ là của người tín hữu giáo dân, mà là của cả Cộng Đồng Dân Chúa, giáo sĩ, tu sĩ cũng như giáo dân.

Chức tư tế thừa tác vụ là để tác động cho Cộng Đồng Dân Chúa, ở một thứ bậc và bản chất khác.

Diễn tả như vậy, Công Đồng Vatican II đã lấy lại hình ảnh Cộng Đồng Dân Chúa theo truyền thống Cựu Ước, cả dân Do Thái là dân thánh dâng lễ ngợi khen và cảm tạ những gì Thiên Chúa đã làm cho mình.

Đồng thời cũng giữ được đặc tính đặc biệt của chức tư tế thừa tác vụ của hàng giáo phẩm, so với những gì các Ki Tô hữu khác có thể tham dự vào chức tư tế của Chúa Giêsu. 

Sau khi đề cập đến chức tư tế thừa tác vụ của hàng giáo phẩm, nhứt là của các Giám Mục, ở chương III, Công Đồng đề cập đến chức tư tế chung của các tín hữu giáo dân ở chương IV, số 34, một cách ngắn gọn, nhưng rất súc tích: 

   - " Chúa Giêsu Ki Tô, Vị Tư Tế Thượng Phẩm và Vĩnh Viễn, cũng muốn tiếp tục qua các động tác của giáo dân, nhân chứng và phục vụ của mình, làm cho họ sống động bằng Thánh Thần của mình và không ngừng thúc đầy họ trong mọi hành động tốt lành và trọn hảo. Thật vậy, qua họ Người liên hệ mật thiết với đời sống và sứ mạng, cũng ban cho họ một phần phận vụ tư tế của Người để họ thực hiện động tác tế tự thiêng liêng, để Thiên Chúa được tôn vinh và cứu rỗi con người. Do đó, các tín hữu giáo dân, được dâng hiến cho Chúa Ki tô và được Chúa Thánh Thần thánh hoá, họ được mời gọi và huấn dạy một cách tuyệt hảo để Chúa Thánh Thần thực hiện nơi họ những kết quả luôn luôn sung túc nhứt. Thật vậy, mọi hoạt động, lời cầu nguyện và các sáng kiến tông đồ của họ, đời sống hôn nhân và gia đình, công việc hằng ngày, các nâng đở tinh thần và thể xác, nếu được thực hiện trong Chúa Thánh Thần, và ngay cả đến những vấn đề phiền nảo trong cuộc sống, nếu họ biết nhẫn nại chịu đựng, tất cả đều trở nên của lễ hy sinh dâng hiến đẹp lòng Thiên Chúa nhờ Chúa Giêsu. Và những gì vừa kể, trong Thánh Lễ là những của lễ rất tốt đẹp dâng lên Chúa Cha cùng chung với Thánh Thể Chúa Giêsu. Như vậy người tín hữu giáo dân, tác động thánh thiện ở mọi nơi như là những người tôn thờ Thiên Chúa, họ dâng hiến chính thế giới cho Chúa" ( LG 4, 34).   

Nói cách khác, người tín hữu giáo dân là người sống chức tư tế của Chúa Giêsu trong cuộc sống của họ. Họ dâng hiến mình, động tác của mình, cả môi trường sống của mình và thánh hoá anh em, để dâng hiến tất cả cho Chúa.

Chức tư tế của người tín hữu giáo dân  trùng hợp với đời sống tác động  thánh hoá môi trường mình đang sống và dâng cho Chúa.

Sống trong Chúa Thánh Thần là hướng về Chúa, dâng hiến cho Chúa đời sống và động tác sống của mình.

Những gì vừa kể cho chúng ta thấy

- vai trò của Chúa Thánh Thần: trong Chúa Thánh Thần, chúng ta có thể hướng về Chúa Cha trong tâm tình con cái.

- chiều hướng theo khuôn mẫu Chúa Ki tô của đời sống Ki Tô giáo: sống hướng về Chúa Cha là sống như Chúa Giêsu.

- dâng hiến thế giới cho Chúa: sống và hành động làm cho tốt đẹp, hoàn thiện môi trường sống của mình để hướng tất cả về cho Chúa.

Sống cuộc sống thánh thiện đối với người tín hữu giáo dân, không cần phải loại thế gian ra khỏi đời sống mình, sống lánh xa thế tục, mà là sống giữa thế gian, hành động tốt đẹp để thánh hoá thế gian và quy hướng thế gian về với Chúa, để mọi yếu tố trần thế đều có ý nghĩa hiện hữu và cùng đích của mình nơi Chúa.

Tác động thánh thiện trong mọi hoàn cảnh là đã dâng hiến cho Chúa, quy hướng thế gian về với Chúa, sống chức tế tự của mình tham dự vào chức tế tự của Chúa Ki Tô.

 

B - Tiên tri.

Thiên chức tiên tri trong Cộng Đồng Dân Chúa, trải qua nhiều thế kỷ, dường như bị lãng quên. Bởi lẽ

- tiên trị, được hiểu là loan báo biến cố Ki Tô giáo trong tương lai, tuyên bố về ngày cánh chung. Chúa Giêsu là tiên tri, bởi vì Người thực hiện các lời được các tiên tri báo trước.

- tiên tri, được hiểu như là mạc khải những gì mới lạ, trong khi đó thì giáo lý dạy chúng ta là những gì Chúa muốn, Chúa đã mạc khải cho chúng ta tất cả, mạc khải được kết thúc với cái chết của vị Tông Đồ cuối cùng.

Trái lại đối với Công Đồng Vatican II, tiên tri là loan truyền và làm nhân chứng sống về Chúa Ki Tô, bằng chính đời sống đức tin và bác ái của mình, như là dâng lên Chúa của lễ ngợi khen, " ...bằng chính miệng lưỡi mà ca tụng Danh Thánh Chúa" ( Heb 13, 15).

Như vậy, tiên tri là nhân chứng và tuyên xưng đức tin.

Nhân chứng không chỉ có nghĩa là loan truyền đức tin, mà hàm chứa cả việc thực hiện đức bác ái:  

   - " Người tín hữu giáo dân chứng tỏ mình là con cái của lời Chúa hứa, nếu họ có đức tin vững mạnh và niềm hy vọng không lay chuyển, biết hành động có kết quả trong hiện tại  ( Eph 5, 16; Co 4, 5) và với lòng kiên nhẫn biết trông đợi vinh quang tương lai ( Rom 8, 5). Và niềm hy vọng vừa kể họ không chôn giấu trong tâm hồn, nhưng luôn luôn biết tiếp tục hối cải và chiến đấu chống lại những kẻ thống trị thế giới tối tăm nầy và chống lại các tinh thần quái ác ( Eph 6, 12), diễn tả niềm hy vọng đó qua các cấu trúc của đời sống trần thế". 

Như vậy sống năng chức tiên tri là sống bằng đời sống nhân chứng đạo đức, hành thiện, được đặt nền tảng trên đức tin, nhờ đó người tín hữu Chúa Ki tô tự bẩm sinh mình có thể cách hành xử và đem ra thực hiện, nhờ sức mạnh của Thánh Thần chân lý ( LG 12).

Khả năng bẩm sinh đó khiến cho người tín hữu

- gắn bó với đức tin,

- thấu hiểu thâm sâu vào các mầu nhiệm đức tin,

- đem ra thực hành một cách hoàn hảo trong cuộc sống.

Trong các bản văn trích dẫn, chúng ta không thấy Công Đồng đề cập đến cá nhân như là người có đặc sủng tiên đoán được tương lai, mà là phận vụ chung để loan báo và làm nhân chứng của Cộng Đồng Dân Chúa.

Chương 12 của Hiến Chế LG nhắc nhở chúng ta là " cả dân Chúa, từ Giám Mục đến người tín hữu giáo dân cuối cùng" đều được Chúa ban cho đức tin, hiểu biết ý nghĩa đức tin, đều đồng thuận chấp nhận những gì thuộc về đức tin và luân lý.

Hiểu biết nội dung ý nghĩa đức tin được mạc khải và cùng nhau tin  những gì được Chúa mạc khải cho qua các Thánh Tông Đồ và qua Giáo Hội, tiếp tục sứ mạng truyền bá đức tin của các Ngài, hàng giáo phẩm và giáo dân không thể nào không đồng nhứt với nhau về đức tin.

Mỗi thành phần Dân Chúa đều tham dự vào thiên chức tiên tri duy nhứt của Chúa Giêsu, mỗi người tùy theo phần của mình: 

   - " Chúa Ki Tô là Đấng Tiên Tri Cả, chứng nhân bằng chính đời sống mình và bằng sức mạnh của lời giảng dạy đã tuyên xưng vương quốc của Chúa Cha, tiếp tục chu toàn phận vụ duy nhứt của Ngài cho đến khi vinh quang Thiên Chúa được tỏ rạng trọn vẹn, không những qua hàng giáo phẩm, là những vị giảng dạy nhân danh và với quyền năng của Ngài, mà còn qua các tín hữu giáo dân, qua họ Ngài thiết lập những nhân chứng của Ngài, giáo huấn họ trong ý nghĩa đức tin và trong ân sủng của lời giảng dạy ( Act 2, 17-18; Ap 19, 10), nhờ đó sức mạnh Phúc Âm được chiếu sáng trong cuộc sống hằng ngày, trong gia đình và xã hội" ( LG 4, 35).  

Như vậy phận vụ tiên tri được thực hiện bằng nhân chứng.

Phận vụ đó không chỉ thể hiện trong một vài thời điểm nào đó trong đời sống, mà gắn liền với cả sự hiện hữu con người, bởi vì không có gì thuộc về con người mà không được ảnh hưởng cứu rỗi của Chúa Ki Tô liên quan đến và không liên hệ đến niềm hy vọng tốt lành.

Nhân chứng hay phận vụ tiên tri được thể hiện bằng đời sống và bằng ngôn từ: người tín hữu giáo dân cũng có phận sự rao giảng Phúc Âm, 

    - " ...phận sự đó mang tính cách đặc biệt và đặc biệt hữu hiệu, bởi vì là phận vụ được thực hiện ngay trong những hoàn cảnh sống thông thường giữa trần thế " ( LG 4, 35). 

Đặc tính đó của người tín hữu giáo dân trong phận vụ rao giảng Phúc Âm còn được Công Đồng Vatican II nêu rõ hơn nữa, là phận vụ rao giảng Phúc Âm liên hệ đến các động tác của họ chuyên lo trong các lãnh vực trần thế: 

   - " Người tín hữu giáo dân, ngay cả khi họ chuyên lo các lãnh vực trần thế, họ cũng có thể và  phải thực hiện động tác qúy báu rao giảng Phúc Âm cho thế gian" ( LG 4, 35). 

Như vậy động tác rao giảng Phúc Âm không chỉ được dành riêng trong một vài khoản không gian, đặc ân hay trong một vài chức năng chính thức nào đó, mà là động tác được ấn tín trên cấu trúc cuộc sống đức tin hằng ngày của người tín hữu: " trong cuộc sống hôn nhân và gia đình", như Công Đồng đề cập, để nói  đến môi trường nào tinh thần Phúc Âm có thể thẩm thấu được.

Như vậy, nơi thực hiện phận vụ tiên tri của mình cũng là nơi huấn luyện tuyệt hảo cho người tín hữu giáo dân thi hành phận vụ tông đồ của họ. Đó cũng là môi trường đức tin Ki Tô Giáo thẩm thấu mọi cách sống và mỗi ngày biến đổi cuộc sống thế trần của người tín hữu Chúa Ki Tô thành cuộc sống trần thế thấm đầy ánh sáng Phúc Âm.

Như vậy, đôi vợ chồng tín hữu Chúa Ki Tô được mời gọi người nầy trở thành tiên tri ( nhân chứng Phúc Âm) cho người kia và cha mẹ là tiên tri ( nhân chứng Phúc Âm) cho con cái, nhân chứng đức tin và tình thương của Chúa Ki Tô.

Với cách hành xử đó, gia đình Ki Tô giáo lớn tiếng tuyên xưng các đức tính hiện tại của Nước Thiên Chúa và niềm hy vọng vào cuộc sống diễm phúc trên Thiên Quốc.

Và hiểu như vậy, chúng ta hiểu được phận vụ tiên tri ( nhân chứng Phúc Âm) không phải chỉ được thể hiện dưới hình thức cộng đồng trong Cộng Đồng Dân Chúa.

Đặc tính chung của Cộng Đồng Dân Chúa được thể hiện trong cuộc sống và trong lãnh vực nghề nghiệp của mỗi người tín hữu giáo dân. 

Ý thức được phận vụ của mình tham dự vào sứ mạng rao giảng Phúc Âm của Giáo Hội, mặc nhiên hàm chứa việc các tín hữu giáo dân phải được học hỏi, chuẩn bị trưởng thành về đức tin, ngoài ra được soi sáng bởi ánh sáng khôn ngoan Ki Tô giáo.

Và đó là phận vụ hàng giáo phẩm phải cung cấp cho họ:  

   - " Họ trên trông đợi ở các vị linh mục ánh sáng và sức mạnh thiêng liêng" ( GS, 43).   

Ai  cũng biết rằng qua nhiều thế kỷ, do sự dốt nát và không có thẩm quyền về tín lý, các tín hữu giáo dân bị đặt ra bên lề việc tham dự vào sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội.

 

C - Vương giả.

Ở chương II Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân ( LG ), chương đề cập đến Cộng Đồng Dân Chúa, Công Đồng không đề cập đến việc tham dự của Dân Chúa vào thiên tước vương giả của Chúa Ki Tô.

Ở số 13  chương II, Công Đồng nói lướt qua về các thành phần Cộng Đồng Dân Chúa tham dự vào thiên tước vương giả của Người.

Điều vừa kể cho thấy chủ ý của Ủy Ban Tín Lý là không muốn áp đặt một nền thần học về ba tước vị của Chúa Ki Tô như một sơ đồ cứng rắn.

Trong ba tước vị của Chúa Ki Tô, lấy lại tư tưởng của Thánh Kinh, thiên chức vương giả được đề cập đến ở chương IV, đoạn 16.

Và Ủy Ban Tín Lý cũng lưu ý đến cách hiểu của Công Đồng Vatican II về ba tước vị đó: phượng tự, nhân chứng và phục vụ trong Cộng Đồng Dân Chúa: 

   - " Quyền năng nầy ( quyền năng vương giả) Chúa Giêsu đã thông ban cho các môn đệ Người, để một khi họ có được địa vị trong tự do vương giả, chính họ cũng loại bỏ được quyền năng của tội lỗi nơi chính họ bằng cuộc sống hy sinh từ bỏ và thánh thiện ( Rom 6, 12), hơn nữa, để phục vụ Chúa Giêsu nơi người khác, trong khiêm nhường và nhẫn nại, họ có thể hướng dẫn anh em họ đến vị Vua, mà thần dân của Người, chính họ cũng là những nhà vua" ( LG IV, 36).   

Như vậy vương tước được thể hiện dưới hình thức phục vụ.

Mẫu gương và tiêu chuẩn để đối chiếu của vương tước đó chính là Chúa Ki Tô. Người đã đạt đến tước vị vương giả của Người qua đức vâng lời. Giờ đây Người đang ngự trị ( Mt 28, 20) và ban cho các môn đệ Người tham dự vào vương tước của Người.

Tham dự vào vương tước đó là làm cho người tín hữu Chúa Ki tô ở vào địa vị " tự do vương giả ": chiến thắng trên vương quyền tội lỗi và phục vụ Chúa Ki Tô trong người khác, để hướng dẫn mọi người đến với Người.

Phục vụ, tự do và vương giả, đó là những ý niệm để diễn tả địa vị của những ai thuộc về vương quyền của Chúa Ki Tô và hành xử trong địa vị vương tước của mình.

Nước Thiên Chúa dần dần được thực hiện trong dòng lịch sử con người, cũng qua chính động tác của người tín hữu giáo dân.

Động tác để thực hiện Nước Thiên Chúa được thể hiện

- đối với các chủ thể con người,

- đối với các tạo vật được dựng nên.

Động tác đem Nước Thiên Chúa đến với con người để biến hoá con người và thánh hoá tạo vật như vừa kể, được Công Đồng lấy lại các tư tưởng của nền thần học trước Công Đồng, liên quan đến việc

- nhận biết giá trị của mỗi tạo vật được dựng nên, " Và Thiên Chúa nhìn thấy đó là điều tốt đẹp" ( Gn 1, 4.10.12.18.21.25. 31).

- hưóng dẫn và sắp đặt thiết định các tạo vật để ngợi khen Thiên Chúa.

Ủy Ban Tín Lý còn cho biết: 

     - " nói lên giá trị của mọi tạo vật để nhấn mạnh sứ mạng tông đồ trên của cải vật chất, nhắc nhớ rằng sứ mạng tông đồ của người tín hữu giáo dân không phải là tự mình gán cho các tạo vật những giá trị từ bên ngoài " ( Giacomo Canobbio, Laico o cristiani, Morcelliana, Brescia 1997, p. 226).

như là gán cho tạo vật những giá trị thiêng liêng ngoại lai nào đó.

Các tạo vật được dựng nên, như Chúa đã tạo nên, chính chúng đã thể hiện vinh quang của Thiên Chúa. 

     - " Động tác của các tín hữu giáo dân đối với tạo vật hệ tại ở việc biến đổi chúng qua việc làm của mình và phân phát chúng thế nào để góp phần thăng tiến nhân loại trong tự do và trong tự do tinh thần Ki Tô giáo" ( Giacomo Canobbio, id.). 

Như vậy, 

   - " Qua các thành phần của Giáo Hội, Chúa Ki Tô càng ngày càng chiếu toả ánh sáng cứu rỗi của Người cho cả  cộng đồng nhân loại " ( LG, 36).

Động tác cứu rỗi của Chúa Ki Tô được thực hiện giữa xã hội loài người và nhờ động tác của người tín hữu giáo dân. 

   - " Chúa Ki Tô càng ngày càng chiếu toả ánh sáng cứu rỗi của Người cho cả cộng đồng nhân loại ", 

 nói cách khác, 

   -  " tác động cứu rỗi của Chúa Ki Tô...cho cả cộng đồng nhân loại ".  

Động tác cứu rỗi đó không những không giới hạn ở việc rao giảng tín lý, mà còn bao gồm cả động tác biến cải,

   - giải thoát  ý nghĩa và địa vị cao cả của con người " được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa" ( Gn 1, 27) và là " con Thiên Chúa" ( Mt 6, 9), khỏi ách nô lệ của tội lỗi và sự chết,

- và giải thoát ý nghĩa chính đáng nguyên thủy và cao cả của mọi toại vật, được Thiên Chúa đặt để nơi chúng, khi Chúa dựng nên chúng. 

Trong nhãn quang vừa kể, câu khẳng định căn bản của Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân ( LG ) về sứ mạng truyền giáo của người tín hữu giáo dân được đặt trên nền tảng Ki Tô Luận   ( Christologia): 

    - " Sứ mạng tông đồ của người tín hữu giáo dân là tham dự vào chính sứ mạng cứu rỗi của Giáo Hội. Và đối với sứ mạng nầy, tất cả đều được chính Chúa ủy thác cho qua phép Rửa và phép Thêm Sức " ( LG IV, 33). 

Và Nghị Định Thực Hiện Truyền Giáo ( Decretum Apostolicam Actuositatem, AA) còn thêm: 

   - " Ơn kêu gọi Ki Tô hữu (...) do bản tính của mình là ơn kêu gọi tông đồ " ( AA, 2). 

Trở nên giống Chúa Ki Tô, qua phép Rửa, thành phần thân thể mầu nhiệm của Người, làm cho người tín hữu Chúa Ki Tô, tham dự vào phận vụ cứu rỗi của Người.

Chúng ta không thể tách rời thực tại bản thể ( réalité ontologique) của Chúa Ki Tô ra khỏi phận vụ cứu rỗi của Người, cũng vậy chúng ta không thể tách rời thực thể trở nên giống Chúa Ki Tô ( conforme au Chirst) của người tín hữu ra khỏi phận vụ tham dự vào sứ mạng cứu rỗi.

Không có một động tác đích thực chính đáng  nào của người tín hữu Chúa  Ki Tô mà không là tác động một cách nào đó, thực thi sứ mạng cứu rỗi của Người.

Không thể tách rời động tác nội bộ nào của Giáo Hội ( intraecclesialis), mà không liên hệ một cách nào đó đến động tác hướng ngoại ( extraecclesialis) không có giá trị tông đồ và thuộc về sứ mạng của Giáo Hội. 

Với một nhãn quang tổng quát: cả Cộng Đồng Giáo Hội đều tham dự vào sứ mạng của Chúa Ki Tô; mỗi người tín hữu Chúa Ki Tô ( giáo sĩ, tu sĩ cũng như giáo dân), mỗi người tùy theo phần của mình, thực hiện toàn diện sứ mạng nầy, bởi vì qua Giáo Hội, mỗi người được tháp ghép vào Chúa Ki tô và thông hiệp, trở nên giống như Người ( conforme au Christ).

Mỗi người có những đặc tính sống và hành động tham dự vào sứ mạng của Giáo Hội của mình, được xác định do hoàn cảnh và điều kiện của cuộc sống, tại vị trí đó mỗi người được ơn gọi của mình cắt đặt mình và do ân sủng Chúa Thánh Linh xếp đặt cho mình.

Tác giả:  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!