"Ách của Ta thì êm ái, gánh của Ta thì nhẹ nhàng" (Mt 12:30).
1. Canh Tân
Cách đây ít năm tôi có dịp đi giảng về Canh Tân cho một cộng đoàn Việt Nam tại vùng Tucson, Arizona. Hôm đó, khi ngồi trên máy bay nhìn xuống, tôi đã thấy cả một vùng đồi núi và sa mạc hoang sơ. Không có một dòng sông khơi nguồn và xa xa chỉ có vài cái hồ nho nhỏ. Đặt chân xuống vùng Tucson, tôi thở hít không khí ấm áp của vùng sa mạc và ngắm nhìn cảnh vật xung quanh. Đây là một vùng đất cằn khô với những cây dương xỉ và các loại cây sa mạc cố gắng chen nhau vươn lên trên mặt đất . Miên man suy nghĩ về đề tài mà tôi muốn chia sẻ với Cộng đoàn tại Tucson về sự Canh Tân.
Tôi nhớ đến một dòng tư tưởng rất am hợp trong cuốn "Với Những Trái Tim Bừng Cháy" của Henri J. M. Nouwen. Ông ghi lại bài suy niệm trên đài truyền hình, khi người xuớng ngôn viên lấy nước đổ trên khoảng đất khô cằn. Xướng ngôn viên nói rằng giờ đây các bạn hãy quan sát: "Đất cằn khô chai lì không thể thấm nước và hạt giống không thể nẩy mầm." Rồi sau đó, ông dùng đôi bàn tay xới đất lên và một lần nữa, ông tưới nước trên đất mềm. Ông nói, "Chỉ có đất đã được cầy vỡ, xới lở mới có thể thấm nhập nguồn nước và hạt giống có thể nẩy mầm và sinh hoa kết trái."
2. Sứ Vụ
Suy nghĩ đến việc đi làm nhân chứng cho Chúa Kitô cũng giống như việc đi cầy, không cầy bừa trên khoảng đất khô cằn nhưng cầy xới những tâm hồn bị cằn cỗi hay đơn côi nguội lạnh. Có đôi lần Chúa Giêsu đã nhắc đến công việc cầy bừa và ách phải mang. Chính Chúa Giêsu ân cần dặn dò các môn đệ của Ngài: "Ai đã tra tay cầm cầy mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa"( Lc 9:62). Chúa đã mời gọi các Tông đồ ra đi vào cánh đồng làm vườn nho cho Chúa. Các tông đồ đã ra đi rao giảng và hầu hết các tông đồ đã trở thành nhân chứng qua chính đời sống của mình. Các tông đồ đã đổ máu đào minh chứng niềm tin vào Chúa Kitô chịu chết và sống lại. Các ngài đã là những nhân chứng đích thật dám hy sinh cả mạng sống mình.
Chúa cũng mời gọi mỗi người chúng ta đi vào làm vườn nho cho Chúa. Bấy giờ, Người nói với môn đệ rằng: Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về."( Mt.9:37-38). Người nông phu phải gắn liền với ách cầy bừa ruộng rẫy và với sự vất vả lo toan. Chúng ta là những người đã, đang và sẽ được mời gọi vào làm trong thửa ruộng với ách cầy trên vai. Đôi khi chúng ta tự hỏi rằng: Cầy cái gì bây giờ? Đối với các linh mục và tu sĩ, nhà trường chỉ dạy về Kinh Thánh, Triết học, Thần học và các môn nhà đạo. Làm sao có đủ chuyên môn và sức dẻo dai để cầy bừa! Chúa Giêsu đã thâu nhận các môn đệ thuộc đủ mọi ngành nghề khác nhau. Có một số các môn đệ ngày xưa là những người đánh cá ngoài ven biển, vậy mà khi Chúa gọi và chọn các ông làm tông đồ, Chúa đã sai họ ra đi thả lưới bắt cá người. Người bảo các ông: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá."(Mt. 4:19).
3. Làm Nhân Chứng
Quan sát cuộc sống ngoài xã hội, khi nói đến đi cầy nghĩa là chúng ta phải đi làm việc, phải lao động để kiếm kế sinh nhai và sống nuôi nấng gia đình. Đối với những người dâng mình cho Chúa để phục vụ tha nhân, Chúa mời gọi chúng ta tra tay vào cầy để làm gì? Đây chính là sứ mệnh làm nhân chứng mà mỗi người chúng ta đang được mời gọi để dấn bước. Làm nhân chứng bằng sự hy sinh và phó thác. Người chứng nhân phân sống tinh thần của Chúa Kitô. Một tinh thần nghèo khó, khiêm nhượng và vâng phục. Chúa Giêsu là mẫu gương tuyệt hảo nhất để chúng ta dõi theo. Sau khi Chúa Giêsu về trời, Ngài đã sai các tông đồ ra đi: Nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất."(Tđcv. 1:8).
Học theo con đường của Chúa Giêsu sẽ không bao giờ cùng. Chúa xuống trần gian chỉ có 33 năm và ba năm sau cùng Ngài ra đi rao giảng tin mừng. Chúa Kitô đã miệt mài trên bước đường tìm kiếm những con chiên bị lạc. Với lòng nhân hậu và rộng lượng từ bi, Ngài đã đến với những con người tội lỗi và đã đưa dẫn họ về nẻo chính đường ngay. Chúa luôn yêu thương và bênh vực họ mọi nơi và mọi lúc. Những lỗi lầm qúa khứ của tội nhân được Chúa xóa bỏ. Chúa tẩy sạch tội lỗi nhơ nhớp của người phụ nữ. Chúa tha thứ cho tên trộm bị đóng đanh cùng. Chúa thứ tha cho tông đồ Phêrô chối Chúa. Chúa thứ tha cho tất cả những người đã làm khổ Chúa. Trên cây thánh giá, tay chân còn bị đóng treo lơ lửng, lưỡi đòng đâm thấu trái tim đau đớn tột cùng, thế mà Ngài vẫn kêu van cùng Cha của Ngài tha thứ cho họ. Xin Cha tha cho họ vì họ lầm chẳng biết. Bấy giờ Đức Giêsu cầu nguyện rằng: "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm."(Lc.23:24).
4. Năm Thánh
Giáo Hội Việt Nam đang mừng Năm Thánh, kỷ niệm 350 năm thành lập và mừng 50 năm thiết lập Hàng Giáo Phẩm. Năm Thánh là thời gian thánh thuộc về Chúa. Sách Lêvi đã ghi rõ về việc mừng Năm Thánh của Dân Do-thái ngày xưa: Các ngươi sẽ công bố năm thứ năm mươi là năm thánh và sẽ tuyên cáo trong xứ lệnh ân xá cho mọi người sống tại đó. Đối với các ngươi, đó là thời kỳ toàn xá: mỗi người trong các ngươi sẽ trở về phần sở hữu của mình, mỗi người sẽ trở về dòng họ của mình.Đối với các ngươi, năm thứ năm mươi sẽ là thời kỳ toàn xá: các ngươi không được gieo, không được gặt lúa tự nhiên mọc, không được hái trong vườn nho không cắt tỉa (Lêvi 25:10-11). Chính trên nền tảng này chúng ta hiểu được ý nghĩa của việc cử hành Năm Thánh trong Giáo Hội Việt Nam.
Chúng ta thuộc về Giáo Hội của Chúa và Chúa là Đấng Thánh, nên mọi tín hữu được mời gọi trở nên thánh. Giáo Hội Việt Nam dành thời gian đặc biệt này để học hỏi, sống thánh và làm nhân chứng cho Chúa Kitô. Như thế, chúng ta sống Năm Thánh là sống trọn về Chúa. Giáo Hội Việt Nam mừng 350 năm đức tin được gieo vào lòng người trên đất Việt và kỷ niệm 50 năm Giáo Hội thành lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam. Trong năm hồng ân này, Giáo Hội tìm về cội nguồn và cùng hướng tới sứ mệnh tương lai để khám phá ra bản chất và sứ vụ của mình. Giáo Hội muôn trở nên Giáo Hội Hiệp Thông và Canh Tân Sứ Vụ qua sự đối thoại và canh tân đời sống. Ba mục đích chính trong Năm Thánh mà Hội Đồng Giám Mục đã nêu ra để học hỏi và cử hành: Giáo Hội Mầu Nhiệm, Hiệp Thông và Canh Tân Sứ Vụ.
5. Sống Năm Thánh
Trong Năm Thánh, chúng ta nghiệm thấy Giáo Hội Việt Nam, đặc biệt các Địa Phận đã có những thay đổi chuyển mình. Thí dụ về việc tổ chức huấn luyện các thừa tác viên, sự hợp tác mạnh mẽ của giáo dân, chương trình đào tạo linh mục tu sĩ và hoàn thành các cơ sở vật chất. Một điểm đáng chú ý là việc thuyên chuyển các linh mục trong các xứ đạo. Đây là một dấu chỉ của sự phát triển trong lòng Giáo Hội. Khi các linh mục được bài sai đến các giáo xứ mới, đã giúp các linh mục thay đổi tâm thức sở hữu và ý nghĩa của đời tận hiến phục vụ. Là nhân chứng đích thực, các linh mục không thuộc về một giáo xứ hay một cộng đòan riêng rẽ nào nhưng được mời gọi bước vào cánh đồng truyền giáo chung.
Các linh mục có sứ mệnh hàng đầu trong việc mở rộng nước Chúa. Chúng ta cũng biết rõ có nhiều linh mục được sai đến những giáo xứ lớn, đông người, công việc bề bộn và suốt thời gian phải chăm chú vào việc giảng dạy và ban bí tích cùng giữ gìn kho tàng đức tin đã có sẵn trong lòng giáo dân. Nhưng chúng ta không chỉ co cụm tại đó, các linh mục cần tiến một bước xa hơn nữa trong sứ vụ truyền giáo. Tôi thầm nghĩ có nhiều linh mục đã phục vụ giáo xứ lâu năm nhưng lại chưa có cơ hội để dạy một người học và tìm hiểu đạo hay rửa rội cho một người tân tòng. Đã 350 năm Giáo Hội được chính thức thành lập, nhưng vẫn còn trực thuộc Thánh BộTruyền Giáo. Giáo Hội chúng ta mừng 50 năm Hàng Giám Mục Việt Nam thành lập, như vậy đã đi được nửa thế kỷ đủ trưởng thành. Giáo Hội cần mở ra, tiến tới và nhập cuộc như Giáo Hội Đại Hàn đã trổ hoa trong thập niên vừa qua.
6. Tương Trợ
Có một vài ý tưởng mà tôi vẫn suy tư là làm cách nào có thể giúp được những xứ truyền giáo xa xôi, hẻo lánh và nghèo nàn. Thường khi các linh mục, tu sĩ ở những giáo xứ nghèo phải đi ăn xin nơi này và nơi kia giúp đỡ. Tôi nghĩ đến việc tương trợ lẫn nhau trong cuộc sống đạo. Những giáo xứ tương đối ổn định có thể chia sẻ với những xứ nghèo ngay tại địa phương của mình.Thí dụ trong một Địa Phận có rất nhiều Giáo Xứ đã ổn định và tương đối giầu có. Tại sao chúng ta không phân chia trách nhiệm và tương trợ chung với các xứ truyền giáo? Quan sát các giáo xứ giầu có đã ổn định thường có khuynh hướng phát triển qúa mức. Nhiều Giáo xứ xây dựng nhiều công trình hoang phí và vô ích. Có nhiều nhà thờ kiến thiết mà không có được chương trình tổng thể, nên có nhiều công trình vừa mới xây dựng xong chưa được bao lâu, đã lại phá đi. Có khi cha xứ cũ vất vả lao công xây dựng đền đài, cha xứ mới về lại đập phá đi, rồi xây cái mới. Trong khi những xứ truyền giáo nghèo nàn chỉ cần một mái che cho giáo dân có chỗ thờ phượng cũng không có.
Các giáo xứ giúp đỡ nhau là đưa dẫn mọi người vào công việc làm nhân chứng, truyền đạo và sống đạo cách tích cực hơn. Chúng ta hãy đào tạo một thế hệ biết chia sẻ lẫn nhau. Sự liên đới giữa các giáo xứ sẽ tạo thành một phong trào sống đạo. Thí dụ chúng ta có thể chọn 3 giáo xứ tương đối ổn định sẽ bảo lãnh phụ giúp cho một địa điểm truyền giáo trong Địa Phận. Người giáo dân và cha xứ có trách nhiệm sống bác ái và cùng lo việc rao truyền tin mừng giữa chư dân. Các giáo xứ có thể tổ chức những cuộc lạc quyên, thăm viếng vùng truyền giáo để học hỏi và cùng làm nhân chứng. Chúng ta không thể bán cái công việc cho một vài cha sở nào đó phải lo tất cả việc truyền giáo. Trong khi chúng ta sống trong những giáo xứ giầu người, giầu của và giầu mọi sinh hoạt lại dửng dưng đứng bên lề. Có những linh mục lúi húi cả đời nơi đồng hoang, khỉ ho gà gáy và vùng sâu vùng xa. Trong khi có những linh mục chẳng bao giờ biết đến chân lấm tay bùn. Chẳng bao giờ cảm nhận được công việc làm nhân chứng.
7. Truyền Giáo
Ngày nay có rất nhiều nhân chứng tiếp tục ra đi rao giảng tin mừng cứu độ. Chúa sai các tông đồ ra đi: Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này (Lc. 24:47-48). Có nhiều người đã hy sinh cả đời để phục vụ tha nhân nơi những xứ truyền giáo. Họ hòa đồng với dân nghèo, sống kiếp nghèo và cùng chia sẻ thân phận với họ. Chính nhờ sự chia sẻ và nâng đỡ nhau giữa các xứ đạo. Các linh mục cũng có cơ hội chuẩn bị cho chính mình thực hành sứ vụ. Không có linh mục nào ở lại một giáo xứ vĩnh viễn, nên khi có điều kiện, các linh mục có thể hoán đổi nơi chỗ để thi hành mục vụ.
Sứ mệnh truyền giáo là sứ mệnh chung của mọi Kitô hữu. Mỗi người được mời gọi làm chứng nhân cho Chúa Kitô. Làm chứng nhân không chỉ với những người đã có lòng tin nơi Chúa, nhưng phải ra đi vào vùng đất mới, nơi có nhiều tâm hồn đang khao khát chờ đợi tin mừng. Chúng ta cần thấm nhuần tình yêu của Chúa Kitô để ra đi là chứng nhân như các tông đồ ngày xưa. Sứ mệnh của các môn đệ của Chúa là đem tha thứ vào nơi giận hờn, đem sự thật vào nơi dối gian, đem yêu thương che lấp hận thù và đem thuận hòa phá tan tranh chấp. Sống nhân chứng là phải xác tín điều mình tin và sống điều mình đang rao giảng. Chúng ta cũng biết rằng không ai là người hoàn hảo và đạo đức đủ để trở thành gương mẫu nhưng chúng ta phải cố gắng mỗi ngày. Sống tốt trong hoàn cảnh cụ thể hằng ngày qua lời ăn tiếng nói và cử xử giao tế. Làm nhân chứng cách hiệu quả nhất là chúng ta cùng sống, cùng chia sẻ và cùng hiện diện với tha nhân.
8. Đi Cầy
Chúng ta được mời gọi để khơi dậy, xới lên những trái tim khô cằn và những lương tâm đã trở thành nguội lạnh thờ ơ. Hãy xới mở các tâm hồn cho nguồn ân sủng của Chúa tuôn tràn và hạt giống Lời Chúa có cơ hội nẩy mầm và sinh hoa kết trái. Đó chính là sứ mệnh của nguời môn đệ Chúa. Sứ mệnh người đi cầy không luôn dễ. Người môn đệ cần chấp nhận dấn bước và không ngó lại đằng sau. Dù đường sỏi đá, dù chỗ ghồ ghề hay nơi hoang vắng cằn khô, người nông phu đã tra tay vào cầy không ngại vì nghịch cảnh khó khăn và không màng khó nguy trên đường. Đừng khi nào chùn chân nản bước. Chúng ta cùng hăng say vác ách ra cánh đồng, Chúa hứa rằng: Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng"(Mt 11:29-39). Bước theo Chúa, làm nhân chứng cho tình yêu và cho sự thật. Chúng ta sẽ tìm được nguồn vui trong sự sống vĩnh cửu là Nước thiên Chúa.
Mỗi người chúng ta đều có trách nhiệm và bổn phận gìn giữ, bảo tồn và làm phát triển đời sống của giáo hội. Giáo Hội là một cộng đồng gồm nhiều thành viên, mỗi thành viên hãy sống ơn gọi của mình. Có người sống ơn gọi gia đình, có người sống ơn gọi độc thân và có người dâng mình cho Chúa phục vụ tha nhân. Chúng ta biết rằng trong sứ vụ rao giảng tin mừng cứu độ cần có nhiều người xông pha tiền tuyến và có kẻ nâng đỡ, phục vụ tại hậu phương. Truyền giáo là việc chung của mọi tín hữu, ai cũng có thể góp phần của mình vào việc truyền giáo như cống hiến thời giờ, khả năng và tiền tài là nguồn phụ giúp cần thiết.
Nói tóm lại, sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội không bao giờ ngừng. Cánh đồng truyền giáo luôn rộng mở, chúng ta hãy xin Chúa sai các thợ gặt đến thu hoặch mùa màng. Mỗi người đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội đều có thể là chứng nhân cho Chúa Kitô. Chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng (Tđcv. 2:32). Có người làm nhân chứng tại gia đình, kẻ ngoài trường học và kẻ khác ngoài xã hội. Cần có những người dám hy sinh ra đi làm chứng nhân cho Chúa giữa những người lương dân, những người chưa hề nghe biết về tình thương và lòng nhân hậu của Chúa. Hãy ra đi và hãy là đền soi dọi vào nơi tối tăm.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Bronx, New York.