NGUYỄN HỌC TẬP
Công Đồng Vatican II thu nhận các kiến thức về xã hội từ những Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội trước đó, từ Rerum Novarum ( 1881) cho đến 1965, cũng như từ những khám phá mới về tính lý và luân lý của các nhà thần học.
Từ đó đến nay, sau trên 40 năm Công Đồng đã kết thúc, Giáo Hội Công Giáo không ngừng đưa ra những Huấn Dụ Xã Hội mới để hướng dẫn chúng ta, đang sống trong các biến chuyển của thời đại, từ cuộc sụp đổ ý thức hệ Cộng Sản năm 1991 đến các tư tưởng hưởng thụ vật chất hiện hành, qua các Thông Điệp
- Populorum progressio ( 1967),
- Octogesima adveniens ( 1971),
- Redemptor hominis ( 1979),
- Laborem exercens ( 1981),
- Sollecitudo rei socialis ( 1987),
- Centesimus annus ( 1991),
- Evangelium vitae ( 1995),...
- Deus caritas est ( 2005).
Dĩ nhiên các Thông Điệp vừ kể không phải chỉ là những Huần Dụ Xã Hội, bởi lẽ ngoài những lời khuyên dạy về lãnh vực xã hội, các Thông Điệp còn chứa đựng các nội dung tín lý và mục vụ, mà Giáo Hội thấy cần huấn dạy cho con cái mình trong thời gian liên hệ.
Hy vọng chúng ta sẽ có dịp trở lại để tìm hiểu qua ý nghĩa của những Huấn Dụ Xã Hội, liên quan đến thời điểm của những biến cố vừa kể, trong những lần khác.
Trong nội dung của bài nầy, chúng tôi muốn được đề cập đến ý nghĩa của những huấn dạy về lãnh vực xã hội của Giáo Hội, liên quan trực tiếp đến những vấn đề mà chúng ta đang trực diện hàng ngày trong cuộc sống hiện tại, qua ba đề tựa:
- Phúc Âm của đời sống,
- Phúc Âm của việc làm
- và Phúc Âm của bác ái.
1 - Phúc Âm của đời sống.
Đặc tính trước tiên chúng ta đề cập, mà Giáo Hội muốn gởi đến chúng ta theo tinh thần Công Đồng Vatican II và những suy tư kế tiếp về vấn đề xã hội, đó là đặc tính Phúc Âm của đời sống.
Một trong những khía cạnh khủng hoảng xã hội hiện nay, là không coi đời sống con người có môt giá trị tuyệt đối.
Đời sống con người chỉ có giá trị tương đối đối với những giá trị khác, đó là quan niệm đang bành trướng trong xã hội hiện đại chúng ta.
Đời sống con người, theo quan niệm đang phổ biến và lưu hành trong xã hội hiện tại, có thể so sánh với các giá trị và các lợi thú quan trọng khác như khoái lạc, sức khoẻ, sống tiện nghi, lợi nhuận kinh tế, khảo cứu khám phá và tiến bộ khoa học.
Từ đó, tùy trường hợp, đời sống có thể được coi là thứ yếu so với những giá trị vừa kể: dùng bào thai đựng trong ống để thí nghiệm, rồi sao đó liệng bỏ vào thùng rác chẳng hạn.
Giáo Hội không thể thờ ơ trước trào lưu quan niệm như vừa kể.
Đó là những gì Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolồ II gì xác quyết trong Thông Điệp đầu tiên của ngài, Thông Điệp Redemptor Hominis ( 1979):
- " Giáo Hội không thể bỏ rơi con người. Bởi vì con người là con đường trước tiên mà Giáo Hội phải bước đi trong việc chu toàn sứ mạng của mình: con người là con đường thứ nhứt và căn bản của Giáo Hội" ( Gioan Phaolồ II, Redemptor hominis ( 04.03.1979), n. 14. in EV VI/1209).
Bởi đó bổn phận đầu tiên của Huấn Dụ Xã Hội hôm nay là bênh vực quyền tối thượng của con người. Mạng sống con người không thể trở thành một giá trị hạng thứ.
Với nguyên tắc vừa kể, bổn phận của Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội là đào tạo một lương tâm mới, gắng sức không ngừng để kiến trúc một quan niệm đồng thuận phổ quát, đối với mọi người, về đời sống con người, được coi như là giá trị luân lý tuyệt đối.
Trong thời đại chúng ta, Giáo Hội không ngừng nhấn mạnh đến quyền được sống, như là nguyên lý và nền tảng của mọi giá trị khác.
Bảo đảm cho quyền tự do lương tâm, tự do ngôn luận, tự do lập hội và gia nhập hội, tự do hội họp, tự do giáo dục, tự do làm việc, tự do sáng kiến kinh tế..., nếu chúng ta chối bỏ đi giá trị tuyệt đối của quyền được sống, tất cả những quyền được bảo đảm vừa kể có lợi ích gì?
Vấn đề thực tế là hiện nay con người đã mất đi ý nghĩa về Thiên Chúa và chỉ có Thiên Chúa, Đấng Tuyệt Đối, là nền tảng tuyệt đối của con người, nhân phẩm, tự do và các quyền của con người.
Lịch sử đã từng chứng minh thừa thải cho thấy rằng ý nghĩa về Thiên Chúa và ý nghĩa về con người, hoặc là có thể chung nhau đứng vững, hoặc có thể chung nhau băng hoại sụp đổ:
- " Khi Thiên Chúa không còn có ý nghĩa gì nữa, thì ý nghĩa về con người cũng bị đe dọa và bị ô nhiểm" ( Gioan Phaolồ II, Evangelium vitae ( 25.03.1995), n. 22, in EV XIV/2234).
Như vậy là chúng ta đang bị rơi vào trong
- " một vòng lẩn quẩn: mất đi ý nghĩa về Thiên Chúa, con người cũng có khuynh hướng mất đi ý nghĩa về con người, về phẩm giá và về đời sống của mình; và kế đến là việc vi phạm có hệ thống luật lệ luân lý ( ...), tạo ra tình trạng dần dần lu mời đi khả năng nhận biết được sự hiện diện ban sự sống và cứu rổi của Thiên Chúa" ( Gioan Phaolồ II, Evangelium vitae, n. 21, id. XIV/2231).
Hậu quả là đời sống mất đi ý nghĩa và con người bị đánh lạc hướng để chuẩn định được phẩm chất làm cho cuộc sống thực sự xứng đáng với " cuộc sống con người".
Và như vậy, chúng ta bị rơi vào quan niệm vật chất thực dụng đê tiện hoá:
- " Các giá trị của đời sống được thay thế bằng các giá trị của cải, giàu có. Mục đích duy nhứt quan trọng chỉ còn là đạt được cuộc sống sung sướng vật chất của chính mình. Điều mà được coi là " phẩm chất của cuộc sống ", sẽ được giải thích nhứt là, hay hoàn toàn là, hiệu năng kinh tế, tiêu thụ hổn loạn, sắc đẹp và việc hưởng thụ đời sống thể xác, trong khi quên đi những chiều hướng sâu đậm hơn của cuộc sống, như giao tiếp thân hữu, thiêng liêng và tôn giáo" ( Gioan Phaolồ II, id., n. 23, XIV/2239).
Đó là tính trạng nghịch lý mà thế giới hiện tại của chúng ta đang gặp phải:
- " Một đàng, nhiểu bản tuyên bố nhân quyền ( ...), được xác nhận trên cả tầm vóc thế giới nói lên một cảm nhận luân lý chú trọng hơn việc nhận biết giá trị và phẩm giá con người, xứng đáng với con người được nhìn nhận, không phân biệt chủng tộc, quốc gia, tôn giáo, chính kiến, giai cấp xã hội. Nhưng đàng khác, chống lại các tuyên ngôn cao qúy nầy, rất tiếc , trên thực tế, đó là việc chối bỏ chính những giá trị đó. Như vậy, từ xã hội của những con người chung sống nhau, các xã hội của chúng ta có cơ nguy trở thành là những xã hội của những kẻ bị loại trừ" ( Gioan Phaolồ II, id., n. 18, XIV/2222).
Đứng trước cuộc khủng hoảng về ý nghĩa và phẩm chất của đời sống con người, Giáo Hội qua Huấn Dụ Xã Hội của mình muốn trả lời như là ngôn sứ của Chúa.
Giáo Hội muốn nhắc mọi người rằng con người được kêu gọi để có được một cuộc sống viên mãn, vượt lên trên các giá trị trần thế, kinh tế và xã hội, để mở rộng con người mình ra , tham dự vào chính đời sống của Thiên Chúa.
Giáo Hội không có gì hoảng hốt phải từ chối, tỏ ra mình đi ngược dòng khuynh hướng thời trang của thế giới hiện đại, bởi lẽ Giáo Hội biết rằng
- " Phúc Âm mà Chúa giao phó cho Giáo Hội là Phúc Âm của đời sống, có tiếng vọng sâu thẩm và thuyết phục trong tâm hồn của mỗi người, người có đức tin hay không cũng vậy. Tiếng vọng đó vươt lên muôn lần trên ước vọng của con người, và đáp ứng lại các ước vọng đó một cách bất ngờ. Mặc cho bao nhiêu khó khăn và bao nhiêu mối nghi ngờ, mỗi con người thành thực cởi mở đón nhân chân lý và điều thiện, với ánh sáng của lý trí và không phải không có ảnh hưởng bí ẩn của ân sủng, đều có thể nhận ra được trong lề luật tự nhiên, được ghi khắc trong tâm hồn mình, giá trị thiên thánh của đời sống con người từ lúc khởi đầu cho đến thời điểm cuối cùng. Và điều đó cũng làm cho con người có thể xác nhận quyền của mỗi người được kính trọng đối tài sản tiên khởi đó của mình. Chính trên sự nhận biết quyền sống đó mà cuộc chung sống nhân loại và cộng đồng chính trị được xây dựng" ( Gioan Phaolồ II, id., n. 2, XIV/2170).
Điều vừa kể cho thấy tại sao trong các thập niên cuối cùng nầy, các Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội rất nhấn mạnh đến gia đình, đến việc cần khởi sự giải quyết cơn khủng hoảng giá trị của đời sống, bằng cách giải quyết cuộc khủng hoảng gia đình:
- " Cần phải trở lại nhìn gia đình như là thánh địện của đời sống. Thật vậy, gia đình là thiên thánh: là nơi trong đó đời sống, được Chúa ban cho, có thể được đón nhận một cách thoả đáng và bảo vệ chống lại nhiều cuộc tấn công mà cuộc sống gặp phải, và nơi mà đời sống có thể phát triển theo những đòi hỏi mà cuộc phát triển chính đáng của con người đòi buộc. Chống lại với cái gọi là văn hoá của sự chết, gia đình là tâm điểm của nền văn hoá sự sống" ( Gioan Phaolồ II, Centesimus annus ( 01.05.1991), n. 39, in EV XIII/199).
Tổng lược Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội
( Compendio della Dottrina Sociale della Chiesa)
n. 231. Phúc Âm của đời sống.
Gia đình được đặt trên nền tảng hôn nhân thực sự là thánh điện của đời sống , " là nơi mà đời sống được Chúa ban cho, được đón nhận một cách xứng đáng và được bảo bọc chống lại mọi hăm dọa mà đời sống gặp phải, và được phát triển để đáp ứng lại các đòi hỏi của một cuộc phát triển chính đáng của con người " ( Gioan Phaolồ II, Centesimus annus ( 1991), n. 39).
Vai trò của gia đình là vai trò quyết định và không thể thay thế được, để thăng tiến và kiến tạo nền văn hoá bảo vệ đời sống chống lại sự lan tràn của tư tưởng phá hoại " chống văn minh" như chủ trương hiện nay của nhiều khuynh hướng và hoàn cảnh hiện tại " ( Gioan Phaolồ II, Lettera alle famiglie, Gratissimum sane ( 1994), n. 13).
Các gia đình Ki Tô hữu, với sức mạnh của Bí Tích nhận được, có sứ mệnh đặc thù làm nhân chứng và rao giảng Phúc Âm của đời sống. Đó là một trọng trách mà gia đình Ki Tô hữu đảm nhận, trong xã hội, giá trị đích thực và lòng can đảm ngôn sứ.
Vì lý do đó mà
- " phục vụ Phúc Âm của đời sống, các gia đình, nhứt là các gia đình gia nhập chung thành hiệp hội, phải hành xử thế nào để luật pháp và cơ chế Quốc Gia không làm phương hại, bằng bất cứ phương thức nào, đến đời sống, từ lúc được thụ thai cho đến lúc chết tự nhiên, trái lại luật pháp và cơ chế Quốc Gia phải bảo vệ và phát huy đời sống" ( Gioan Phaolồ II, id.).
2 - Phúc Âm của việc làm.
Giáo Hội nhận biết vai trò chính đáng của lợi tức, như là dấu chỉ của tiến trình tốt đẹp một cơ sở kinh tế.
Nhưng lợi tức không phải là dấu chỉ duy nhứt , động năng chính yếu của phát triển và tiến trình sản xuất,
- " nếu các chỉ số kinh tế nằm trong trật tự, nhưng cùng chung với con người, là tài nguyên qúy giá của cơ sở lại bị đê tiện hóa và bị xúc phạm trong phẩm giá của mình" ( Gioan Phaolồ II, Centesimus annus ( 01.05.1991), n.35, in EV XIII / 187).
Huấn Dụ Xã Hội gần đây của Giáo Hội phát hiện ra lý do của những mối tương phản trái nghịch trong kinh tế tư bản, nhứt là " tư bản tự do cực đoan ".
Đó là việc làm của con người cũng như giá trị đời sống con người, đã bị mất đi ý nghĩa đích thực của nó.
Ở đây cũng vậy, chúng ta đang đứng trước cơn khủng hoảng về phẩm chất, về ý nghĩa, được thể hiện dưới hình thức đổ vỡ và đối nghịch
- giữa con người và động tác kiến tạo của con người,
- giữa việc làm và của cải tư bản,
- giữa người công nhân và phẩm chất của cuộc sống cho anh ta.
Đứng trước cơn khủng hoản về phẩm chất, thể hiện qua những đối ngược vừa kể, Giáo Hội xác tín rằng mình có thể đưa ra cho con người và xã hội con người giải pháp thoả đáng, bằng cách loan báo Phúc Âm của việc làm:
- " Nếu giải pháp, hay đúng hơn là giải pháp thăng tiến tuần tự vấn đề xã hội, bị luôn luôn đứng trước tình trạng càng ngày càng phức tạp hơn, chúng ta phải tìm ra phương thức trong chiều hướng làm cho " đời sống con người xứng đáng với con người hơn", và như vậy chìa khóa của vấn đề là việc làm của con người có một tầm quan trọng nền tảng quyết định" ( Gioan Phaolồ II, Laborem exercens ( 14.09.1981), n. 3, in EV VII/ 1398).
Bởi đó, tiếp tục bước đi trên con đường về con người đã được bắt đầu từ khởi điểm triều đại Giáo Hoàng của ngài, Đức Gioan Pholồ II nhắc nhở rằng cần lưu tâm đến việc làm như là yếu tố căn bản của cuộc sống con người, chính trong lúc cuộc cách mạng kỷ thuật đang thay đổi sâu đậm chu kỳ sản xuất và ngay cả trong những mối tương quan giữa con người và việc làm.
Giáo Hội ý thức rằng hôm nay chúng ta đang đứng trước
- " ngày áp của những phát triển mới trong các hoàn cảnh kỷ thuật, kinh tế và chính trị, mà theo nhiều người có kinh nghiệm, là những phát triển sẽ có ảnh hưởng đến thế giới việc làm và sản xuất, không có gì kém hơn những ảnh hưởng cuộc cách mạng kỷ nghệ thế kỷ vừa qua đã tạo ra" ( id., n. 2, in EV VII/ 1393).
Như vậy ý nghĩa đích thực việc làm của con người, nội dung căn bản Phúc Âm của việc làm, được gói trọn trong nguyên tắc sâu đây:
- " Nền tảng để xác định giá trị việc làm của con người trước tiên không phải hệ tại ở thứ loại việc làm được thực hiện, nhưng hệ tại ở chỗ kẻ đứng ra thực hiện việc làm là một con người. Các nguồn gốc của phẩm giá việc làm phải được khám phá ra trước tiên không phải trong chiều hướng vật thể, mà trong chiều hương chủ thể. Nói tắt một lời: việc làm được thực hiện cho con người, chớ không phải con người được nhằm để làm việc" ( id., n.6, , in EV VII/1414).
Hiểu như vậy, chúng ta cần thấy phải thoát ra khỏi nhãn quang thuần kinh tế, nhứt là kinh tế tự do cực đoan, và nhận biết rằng chủ thể đích thực của tiến trình sản xuất chính là con người.
Nói như vậy, có nghĩa là việc làm sẽ có được ý nghĩa đích thực và địa vị cao cả của mình. khi chúng ta đặc tâm chú ý đến ba phương diện căn bản của việc làm.
a) Trước hết, việc làm phải được xem là động tác của một con người:
- " Với tư cách là con người, con người là chủ thể tác động của việc làm. Như con người, anh ta làm việc, thực hiện nhiều động tác trong tiến trình làm việc; các động tác đó, không tùy thuộc vào nội dung khách quan, tất cả đều được dùng để thể hiện nhân tính của anh" ( id.).
b) Kế đến cần lưu ý rằng, việc làm của con người là một động tác sáng tạo,
- " Việc làm của con người là nguyên nhân hiệu lực tiên khởi; trong khi đó thì vốn liếng, cùng chung với những phương tiện sản xuất khác, chỉ là dụng cụ. Vốn liếng được tạo ra do việc làm và mang nơi mình ấn tín của việc làm con người " ( id., n. 12, in EV VII/1439).
Địa vị thượng đẳng của sự cực nhọc con người trên vốn liếng và trên cả tiến trình sản xuất được nhấn mạnh trong Phúc Âm của việc làm, sau khi được nhận thức rằng
- " qua việc làm, con người tham dự vào công trình tạo dựng của Thiên Chúa " ( id., n. 25, in EV VII/1499).
Không những vậy, Phúc Âm của việc làm còn cho chúng ta biết mồ hôi và nhọc mệt, là bạn đồng hành không thể chia tách của mọi động tác con người, thay vì làm cho trở nên xấu xí hơn, làm con người trở thành người cộng tác với Chúa Ki Tô - là " Con Người làm việc" tuyệt hảo ( id., n. 26, in EV VII/ 1504-1510).
c) Và sau cùng, việc làm tự bản tính nội tại của nó, là một động tác liên đới,
liên đới với các bạn bè công nhân làm việc khác, hay liên đới, có liên hệ đến, người khác cũng vậy.
Và như vậy đăc tính liên đới của việc làm con người, không phải liên đới, dưới hình thức tiêu cực, để chống lại ai, mà là liên đới , bởi chính bản tính của việc làm, liên đới để xây dựng:
- " Thật vậy, biện giải thế nào một cuộc liên đới lại trở thành cuộc chống đối không thể nhân nhượng chống lại người khác? ( ...) Tình liên đới có nguồn gốc và sức mạnh của mình trong bản tính việc làm của con người, và như vậy trong quyền thượng đẳng của con người trên mọi vật thể, sẽ biết tạo ra những phương thức để đối thoại và cộng tác" ( Gioan Paolo II, Discorso alla 68° sessione della Conferenza internazionale del lavoro ( Ginevra, 15.06.1982, in Osservatore Romano ,16.06.1982).
Như vậy sau khi đã tìm ra trong việc làm là chià khóa chính yếu của vấn đề xã hội, Giáo Hội chứng minh rằng, dưới ánh sáng Phúc Âm của việc làm, hiện nay chúng ta có thể trả lại cho việc làm con người ý nghĩa đích thực của nó và đặt lên trên nền tảng việc làm một tình liên đới mới, mở rộng cửa để gặp gỡ bất cứ ai thành tâm thiện chí.
Tổng lược Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội
( Compendio della Dottrina Sociale della Chiesa)
n. 269. Phúc Âm của việc làm.
Khởi từ Rerum Novarum, Giáo Hội không bao giờ ngưng cho rằng các vấn đề làm việc hàm chứa trong nội dung của vấn đề xã hội, dần dần đang lan rộng ra đến tầm vóc thế giới.
Thông Điệp Laborem exercens làm cho trở nên phong phú hơn nhãn quang nhân vị của việc làm, đặc tính của các tài liệu về xã hội trước đó, chỉ dạy cho chúng ta cần tìm hiểu sâu xa hơn các ý nghĩa và phân vụ mà việc làm có thể đưa đến, nên lưu tâm đến thực tại là
- " luôn luôn nảy sinh ra những câu hỏi và những vấn đề, luôn luôn nảy sinh ra những hy vọng, nhưng cũng có những mối lo sợ và doạ nạt liên quan đến chiều hướng căn bản về sự hiện hữu của con người, chiều hướng mà theo đó đời sống con người được xây dựng mỗi ngày. Và từ chiều hướng đó mà con người múc lấy được chính phẩm giá cá biệt của mình, nhưng đồng thời cũng chinh trong các chiều hướng đó luôn luôn được chứa đựng tầm mức mệt nhọc của con người, sự đau khổ và cả thiệt hại lẫn bất công có thể thâm nhập sâu đậm vào đời sống xã hội, vào nội địa của từng Quốc Gia và ảnh hưởng trên bình diện quốc tế" ( Gioan Phaolồ II, Laborem exercens, n. 1).
Thật vậy, việc làm là " chìa khóa chính yếu "( id., n.3) của cả vấn đề xã hội, ảnh hưởng đến phát triển không những kinh tế, mà cả đến văn hoá và luân lý của mỗi con người, đến gia đình, xã hội và cả dòng giống nhân loại.
3 - Phúc Âm của bác ái.
Bác ái được xem như chất xi măng hàn gắn mà người tín hữu Chúa Ki Tô đươc đặt vào lòng xã hội để xây dựng xã hội con người.
- " ...lòng bác ái thì xây dựng" ( 1 Cor 8, 1).
Và Công Đồng Vatican II giải thích thêm:
_ " Lời Chúa mạc khải Chúa là bác ái và dạy chúng ta bác ái cũng là lề luật căn bản của sự thiện hảo con người, và bởi đó bác ái cũng là lề luật nền tảng để thay đổi thế giới, đó là điều răn mới của đức bác ái. Bởi vậy ai tin vào lòng bác ái của Thiên Chúa, được chính Người bảo chứng chắc chắn cho rằng bác ái là con đường được mở ra cho tất cả mọi người và chắc chắn rằng các cố gắng để thực thi tình huynh đệ phổ quát cho tất cả mọi người không phải là những nỗ lực vô ích" ( Gaudium et Spes, n. 38, in EV i/1437).
Đức bác ái Ki Tô giáo vượt xa hơn những gì chỉ là lòng nhân ái thuần túy. Bởi lẽ đức bác ái Ki Tô giáo không chỉ gồm tóm đạo luật vàng nền tảng trong tinh thần Cựu Ước:
- " Tất cả những gì anh em muốn cho người khác làm cho anh em, anh em cũng hãy làm cho họ" ( Mt 7, 12).
và cũng vượt lên trên đạo luật cổ:
- " Hãy thương yêu người thân cận như chính mình" ( Mt 22, 39).
Nhưng bác ái xác nhận rõ bản tính " mới " và thượng đẳng của Ki Tô giáo:
- " Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy thương yêu nhau, như Thầy đã yêu thương anh em" ( Jn 15, 12),
Đức bác ái Ki Tô giáo được thể hiện bằng chính tình thương siêu nhiên của Chúa, đang hiện diện trong chúng ta.
Như vậy chứng nhân đức bác ái Ki Tô giáo là làm cho người khác nhận thấy được Thiên Chúa là Đấng vô hình:
- " Thiên Chúa chưa ai được chiêm ngưỡng bao giờ. Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta và tình yêu của Người nơi chúng ta mới nên hoàn hảo" ( 1 Jn 4, 12).
Lời dạy bảo Phúc Âm, đã được chứng thực từ hai ngàn năm lịch sử, nói lên tầm quan trọng, nhứt là trong thời đại khủng hoảng sâu đậm chúng ta đang trải qua, tầm quan trọng mà Giáo Hội đặt liền với nhân chứng Phúc Âm, làm cho lời rao giảng Ki Tô giáo đáng tin cậy,
- " Đức bác ái là trung tâm điểm của Phúc Âm và nói lên dấu chỉ trọng đại khiến cho người khác có thể tin vào Phúc Âm" ( CEI, Evangelizzazione e testimonianza della carità, n. 9, in ECEI IV/2727),
cũng như là dấu chỉ để xây dựng một xã hội đúng với tầm mức con người.
Bởi đó Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolồ II, trong khi " nêu lên những chủ đề và các định hướng, lấy từ các huấn dụ của Giáo Hội trong những năm gần đây " trong Huấn dụ Xã Hội của ngài, Sollecitudo rei socialis, ngài đã trích dẫn:
- " việc chọn lựa ưu tiên hay tình thương dành ưu tiên cho người nghèo khổ, mong sẽ được trải rộng ra có tầm vóc thế giới và được vấn đề xã hội lưu ý đến tình thương dành ưu tiên nầy, do những quyết định mà lãnh vực xã hội làm cho chúng ta suy nghĩ đến. Vấn đề xã hội không thể không bao gồm những đoàn thể đông đảo vô tận những người đang đói khát, các giới ăn xin, những kẻ không nơi nương tựa, bao nhiêu kẻ không được bảo trở sức khoẻ và nhứt là không có hy vọng gì có được một tương lai khá hơn ( ...). Cuộc sống hằng ngày của chúng ta phải được đánh dấu bằng những thực trạng đó, cũng như những quyết định của chúng ta trong lãnh vực chính trị và kinh tế" ( Gioan Phaolồ II, Sollecitudo rei socialis ( 30.12.1987), n. 42 in EV X/2673s).
Dành lựa chọn ưu tiên cho những kẻ khó nghèo là mở cửa cho chủ đề giải thoát con người của Ki Tô giáo:
- giải thoát người nghèo khỏi mọi hình thức nô lệ,
- nhứt là khỏi những hình thức " nghèo khổ mới " của con người và khỏi các " cơ cấu trúc của tội lỗi ", nghĩa là khỏi những tình trạng của các cơ chế bất công, trong đó những gì nặng nhọc đều rơi xuống trên những kẻ yếu thế.
Rao giảng Phúc Âm của bác ái là tranh đấu để giải phóng những kẻ khó nghèo, những người bị áp bức và tất cả những kẻ bị loại ra bên ngoài.
Bởi vì bác ái, khi nào là bác ái đích thực và chính đáng, không thể không hàm chứa việc kính trọng và phát huy công lý.
Có ý nghĩa gì, nếu một người hiến tặng miễn phí cho kẻ khác tình liên đới của mình, nhưng đồng thời lại khước từ những gì thuộc quyền hạn và lợi thú chính đáng của anh ta?
Tranh đấu cho công lý đã là tình thương. chính Đức Phaolồ VI đã định nghĩa việc dấn thân chuyên cần bênh vực cho công lý như là
- " mức độ tối thiểu của đức bác ái" ( Paolo VI, Discorso ai campesinos ( Bogotá, 23.08.1968), in Osservatore Romano ( 25.08.1968), 3).
Với những gì Đức Paolo VI vừa phát biểu, Đức Gioan Phaolồ II nối tiếp:
- " sự công bằng tự mình thôi, chưa đủ, hay đúng hơn có thể đưa đến việc chối bỏ và tiêu diệt chính nó, nếu công bằng không để cho sức mạnh nội tại sâu thẩm hơn của mình, đó chính là tình yêu, có cơ cấu tạo đời sống con người trong các chiều hướng khác nhau của nó" ( Gioan Phaolồ II, Dives in misericordia ( 30.11.1980), n. 12. in EV VII/926).
Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II giải thích sự cần thiết nầy của đức bác ái, để làm cho công lý được trở nên trọn vẹn:
- " Bình đẳng được công lý cho hội nhập chỉ giới hạn trong lãnh vực các của cải khách quan ( beni oggettivi) và phiến diện bên ngoài; trong khi tình thương và lòng nhân hậu làm cho các con người gặp được nhau trong giá trị là chính con người, với nhân phẩm của chính mình" ( id., n. 14, in EV VII/941).
Như vậy với sứ mạng loan truyền Phúc Âm của bác ái, Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội chỉ cho thấy sự tổng hợp cần thiết giữa công lý và bác ái liên đới, phương tiện quyết định để kiến tạo một xã hội xứng với tầm vóc con người.
Góp công quyết định cho chiều hương vừa kể được Đức Thánh Cha Benedictus XVI nói lên trong Thông Điệp đầu tiên của ngài, Thông Điệp Deus caritas est:
- " Lời xác nhận cho rằng các cấu trúc đúng đắn có thể làm cho các động tác bác ái trở nên dư thừa, trên thực tế ẩn giấu bên dưới một quan niệm vật chất về con người: đó là tiền kiến, theo đó thì con người "chỉ cần có bánh để sống" ( Mt 4, 4; cfr. Dt 8,3). Đó là xác tín đê tiện hoá con người và không nhận ra những gì thuộc về chính con người" ( Benedictus XVI, Deus caritas est ( 25.12.2005), n. 28).
Tổng lược Huần Dụ Xã Hội của Giáo Hội
( Compendio della Dottrina Sociale della Chiesa)
n. 4 -6 : Phúc Âm của bác ái.
Bất ngờ biết được Thiên Chúa yêu thương, con người hiểu được phẩm giá siêu nhiên của mình, biết được mình không còn chỉ có thể thoả mãn về chính mình và như vậy cần gặp được người khác trong mối liên hệ luôn luôn nhân bản hơn.
Con người được Thiên Chúa canh tân bằng tình thương yêu của Người, có khả năng thay đổi luật lệ và phẩm chất của các mối liên hệ và cả các cấu trúc xã hội: họ là những con người
- có khả năng đem lại hoà bình đến nơi đâu có chống đối tranh chấp,
- xây dựng và vung trồng các mối tương quan huynh đệ ở đâu có hận thù,
- tìm kiếm công lý ở đâu có phương thức cai trị làm cho con người lợi dụng con người.
Chỉ có tình yêu thương có khả năng biến đổi tận gốc rể các mối tương quan giữa nhân loại giao hảo với nhau.
Hội nhập vào viễn ảnh đó, mỗi người thành tâm thiện chí có thể bắt đầu nhận thấy được các chân trời rộng mở của công lý và phát triển con người trong chân lý và thiện hảo.
Tình thương có trước mặt mình một công trình rộng lớn phải làm, mà Giáo Hội muốn góp phần vào đó bằng cả Huấn Dụ Xã Hội của mình, liên quan đến con người toàn diện và đến tất cả mọi người.
Bao nhiêu anh em đang cần được sự giúp đở, bao nhiêu người đang bị đàn áp đang cần công lý, bao nhiêu người thất nghiệp đang cần việc làm, bao nhiêu dân tộc đang chờ đợi được sự kính trọng:
- " Trong thời đại chúng ta, làm sao còn có thể có những người đang bị chết đói? Còn có những kẻ bị kết án phải gánh chịu nạn mù chữ? Còn có những người đang chịu thiếu thốn ngay cả những việc chăm sóc y tế sơ đẳng? Còn có những người không có được một căn nhà để nương tựa? Cảnh tượng nghèo đói có thể lang rộng đến vô tận, nếu chúng ta thêm vào những cảnh nghèo nàn cũ cả những hoàn cảnh mới, liên quan cả đến các môi trường và những hạng người không phải thiếu thốn tài nguyên kinh tế, nhưng đang lâm vào tình trang thất vọng vô ý nghĩa, vào tình trạng nguy hiểm của nha phiến, vào hoàn cảnh bị bỏ rơi trong tuổi già nua hay bệnh tật, vào trạng thái bị loại ra bên lề hay bị đối đải thiên vị...Và rồi làm sao ai có thể dững dưng trước viễn ảnh môi trường bị hư hại, làm cho con người không thể sống được hay trở thành đối nghịch với con người trên cả những vùng rộng lớn trên địa cầu? Hay đối với những vấn đề hoà bình, thường bị ác mộng của những trận chiến tranh thảm khóc hăm doạ? Hay trước vấn đề vi phạm các quyền căn bản của con người đang xảy ra đối với bao nhiêu người, nhứt là đối với trẻ em?" ( Gioan Phaolồ II, Lettera Apostolica Novo millenio ineunte ( 2001), n. 50s).
Tình thương Ki Tô giáo thúc đẩy chúng ta tố cáo, đề nghị và dấn thân chăm lo đến những đồ án văn hoá và xã hội, đến các động tác thực hiện, đến việc thúc đẩy tất cả những ai thành thật lưu tâm đối với số phận con người, để họ cũng tham gia cộng tác bằng chính phận vụ của họ.
Cả nhân loại càng ngày càng ý thức rõ ràng hơn rằng
- mình liên hệ vào cùng chung một số phận,
- đòi buộc phải có thái độ cùng đảm nhận trách nhiệm,
- được định hướng bằng quan niệm về con người toàn diện và liên đới ( uomo integrale e solidale).
Cả nhân loại thấy được rằng viễn ảnh đồng số phận đó thường xuyên bị ảnh hưởng hay thậm chí bị áp đặt bởi kỷ thuật và kinh tế và cần có được một ý thức rộng lớn hơn về luân lý, định hướng cho hướng đi chung.
Ngạc nhiên trước những khám phá mới về kỷ thuật, con người của thời đại chúng ta rất mong ước rằng tiến bộ sẽ được dùng vào mục đích tốt đẹp thực sự cho nhân loại hôm nay và ngày mai.
Nói tóm lại, từ Công Đồng Vatican II Giáo Hội Công Giáo muốn nhắn với tất cả chúng ta, người tín hữu Chúa Ki Tô cũng như những ai thành tâm thiện chí, rằng để xây dựng một cuộc sống xã hội tốt đẹp, trong đó con người có được một cuộc sống xứng đáng với phẩm giá của mình, chúng ta cần phải lưu tâm và dấn thân để tạo ra đồ án định chế và tổ chức cơ chế thực hiện theo ba định hướng mà Giáo Hội đã nhắn gởi đến chúng ta:
- Phúc Âm của đời sống,
- Phúc Âm của việc làm và
- Phúc Âm của bác ái.