(Lc 7:36-8:3)
viết ngày: 17.06.2007
Nữ minh tinh Paris Whitney Hilton nổi tiếng giàu có và tài hoa. Nàng được hưởng gia tài kếch sù của thân phụ. Danh Hiton nổi như cồn khi video tình dục của nàng phát tán trên mạng vào cuối năm 2003. Nàng trở thành thần tượng của nhiều thanh thiếu niên. Mấy ngày nay, giới truyền thông ầm ĩ về vụ nàng bị bắt nhiều lần lái xe đang lúc say rượu. Dư luận xôn xao vì nàng vô tù rồi lại được thả ra trước khi mãn hạn. Có những người lên tiếng bênh vực. Nhưng cũng có người chỉ trích vì hành vi của nàng có thể ảnh hưởng tới giới trẻ.
Paris Hilton có khác người phụ nữ tội lỗi trong Tin Mừng Luca hôm nay không ? Cả hai đều là mục tiêu của dư luận. Nếu có mặt trong đám quần chúng đang vây quanh Paris Hilton hôm nay, Chúa Giêsu sẽ có cái nhìn và nhận định ra sao ? Có thể tìm thấy câu trả lời dễ dàng khi nhìn vào người phụ nữ tội lỗi trong bữa tiệc tại nhà ông Simon năm xưa không ?
ÁO TÍM BAY BAY
Hôm nay, ông Simon, một người thuộc nhóm Pharisêu, mở tiệc khoản đãi Ðức Giêsu. Ngoài dự tính của ông, một bóng áo tím xuất hiện. Nàng nổi tiếng “là người tội lỗi trong thành.” (Lc 7:37) Nàng càng lôi cuốn sự chú ý của mọi người khi tiến sát bên Chúa Giêsu. Mặc dù là nhân vật chính trong câu truyện hôm nay, nàng hoàn toàn thinh lặng từ đầu đến cuối. Khi bước vào nhà ông Simon, nàng mang theo “một bình bạch ngọc đựng dầu thơm,” (Lc 7:37) trị giá 300 quan tiền Rôma, tương đương với lương hàng năm của một công nhân trung bình.
Một cảnh vô cùng cảm động và ngoạn mục diễn ra ngay trước mắt thực khách. Nàng “lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người. Nàng lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên.” (Lc 37:38) Những giọt nước mắt và dầu thơm đắt giá đó không phải là nguyên nhân làm Chúa tha thứ cho nàng, nhưng chúng là những hệ quả và dấu chỉ về ơn tha thứ mà nàng nhận được. Chính sự trần trụi túng thiếu hoàn toàn của nàng và chính việc hoàn toàn tin tưởng vào ơn tha thứ đã làm cho Chúa Giêsu tha tội cho nàng.
Nhưng đó chưa phải là điểm chính trong bữa tiệc hôm nay. Dưới mắt ông Simon và đồng bạn, vấn đề nổi cộm liên quan tới tư cách ngôn sứ của Ðức Giêsu (x. Lc 7:39). Theo truyền thống, cũng như mọi người Pharisêu khác, ông được mời gọi tránh xa người tội lỗi, vì sợ “gần mực thì đen” ! Thiên Chúa yêu thương những người tuân giữ Lề Luật như ông. Ngược lại, vì không tuân giữ Lề Luật, hạng tội lỗi không được Chúa yêu thương. Vậy tại sao Ðức Giêsu không xa lánh người phụ nữ tội lỗi này ? Phải chăng Người không được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn ?
Rõ ràng đối với người Pharisêu, sự “công chính” là tiêu chuẩn duy nhất phân biệt và đánh giá con người. Sự “công chính” đó không biết gì đến “đức khôn ngoan của Thiên Chúa cũng như thực tại của lòng người.”[1]
Trong đường lối quan phòng kỳ diệu, Thiên Chúa muốn con người dần dần cảm nghiệm sâu xa về tình yêu chân chính của Người, một tình yêu chỉ biết cảm thông và tha thứ. Không biết đến thực tại đó là không biết Thiên Chúa. Thực tế, ông Simon cứ tưởng biết hết về Thiên Chúa khi đã nắm vững toàn bộ Lề Luật, bất kể con người. Lề Luật đã làm ông trở nên vô cảm trước những đau khổ và nhức nhối của lương tâm tội nhân.
Tình yêu vượt qua tất cả và làm cho con người xích lại gần nhau. Chỉ tình yêu mới giải thích nổi cả hành động của người phụ nữ tội lỗi lẫn việc Chúa Giêsu chấp nhận nàng. Dưới ngòi bút Luca, Ðức Giêsu được đặc tả như biểu tượng lòng trắc ẩn và sự tha thứ của Thiên Chúa. Chắc chắn kinh nghiệm đã cho thánh Luca cảm thấy Ðức Giêsu có một bản chất bao dung.
Ðiều duy nhất Chúa quan tâm đó là tình yêu nơi con người được tha thứ. Người phụ nữ tội lỗi không có khả năng tuân giữ các Lề Luật. Nhưng chắc chắn nàng hiểu tầm quan trọng của công việc phục vụ vì tình yêu. Nhưng làm sao nàng có thể diễn tả điều đó cho ông Pharisêu bây giờ ? Nàng có thể bị kết án nặng nề nếu lên mặt dạy dỗ các bậc thày “công chính.” Nàng vẫn thinh lặng. Hành động đủ thay thế lời nói.
Nếu đưa một mớ lý lẽ thuyết phục ông Pharisêu, chắc chắn Ðức Giêsu cũng khó thành công, vì ông đã sống lâu trong não trạng và phong tục phân biệt tốt xấu theo Lề Luật rồi. Bởi thế, Chúa đã kể một câu truyện rất thực tế và có sức thuyết phục ghê gớm. Hai con nợ đều được tha, mặc dù số nợ rất khác nhau. Người được tha nhiều sẽ yêu nhiều hơn. Tình yêu là hệ quả tất yếu của ơn tha thứ.[2] Chính vì nhận thức về sự tha thứ đó, người phụ nữ mới dám tỏ tình thương và lòng ngưỡng mộ con người Ðức Giêsu.
Tin Mừng đã thay thế lối nhìn và cách tính toán công tội. Tin Mừng chỉ biết giá trị tình yêu và lòng tin tưởng (x. Lc 7:47.50).[3] Nhờ đó, ông Simon biết mình là ai, cần thay đổi não trạng và thái độ như thế nào cho phù hợp với kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Nếu không, ông không thể thấy được sự thật là Ðức Giêsu giải thoát, dù ông đã có nhã ý thiết tiệc Người. Khi tâm hồn không mở rộng tiếp đón Thiên Chúa, làm sao có thể sẵn sàng thông cảm với tha nhân ? Làm sao có thể cảm tạ Thiên Chúa và dễ dàng tha thứ cho người khác ? Mỗi khi tha thứ, chúng ta lớn lên theo chiều kích Thiên Chúa. Người được tha thứ cũng mặc lấy toàn bộ chiều kích ân sủng và tình yêu Thiên Chúa.
CHIỀU ÁO TÍM
Ðường công chính của người Pharisêu không dẫn tới ơn cứu độ, vì không có bóng dáng tình yêu cảm thông và tha thứ của Tin Mừng. Họ càng nghi ngờ, Chúa càng tỏ hết quyền lực để cứu nàng khỏi nanh vuốt ma quỷ. Chính khi tha tội cho nàng, Chúa tự đặt mình cao hơn bất cứ một ngôn sứ hay tôn sư nào. Người nại đến uy quyền Thiên Chúa. Ðó là điều làm cho ông Simon và các thực khách thấm buồn. Họ đau buồn hơn bao giờ. Dĩ nhiên. Nhưng không vì thế, Chúa không tiếp tục hướng tới con đường phía trước. Ðó là con đường đức tin dẫn tới ơn cứu độ. Ơn cứu độ mang lại hòa bình. Nói tóm, không tin vào Thiên Chúa, không thể có sự tha thứ và bình an đích thực.
Chính vì thế, Ðức Giêsu đã đến trần gian như một Ðấng Cứu thế. Người đi tìm những gì đã mất. Người nong nả săn đón người tội lỗi. Người đàm đạo lâu giờ, mạc khải tình yêu, chữa lành và tha thứ cho họ. Con đường Thiên Chúa dẫn vào lòng người, thấm nhập tư tưởng thâm sâu nhất. Từ đó Ðức Giêsu khơi dậy những gì là chân thiện mỹ và những gì thuộc về Thiên Chúa.
Noi gương Chúa, người Kitô hữu chân chính chỉ nhìn thấy điều tốt đẹp nơi những gì xấu xa nhất của con người tội lỗi. Họ không nhìn vào tội lỗi, nhưng chấp nhận mọi người như những người con được Thiên Chúa cứu độ. Người Kitô hữu chân chính nhận mình tội lỗi và quay về với Thiên Chúa để xin ơn tha thứ và cảm nghiệm tình yêu của Người như người phụ nữ tội lỗi.
Nàng quả thực là mẫu điển hình cho chúng ta. Nàng ý thức tình trạng tội lỗi. Ðức tin mở mắt cho nàng thấy Chúa đã tha thứ cho nàng nhờ Ðức Giêsu. Bởi đấy, nàng mới có thái độ yêu thương và biết ơn rất khác thường để tỏ lòng tôn kính Chúa.
Nhưng không phải chỉ có mình nàng. Nhiều phụ nữ cũng đi theo Chúa. “Các bà lấy của cải mình mà giúp đỡ Ðức Giêsu và các môn đệ.” (Lc 8:3) Tại sao các bà lại dành thời giờ và của cải cho Chúa như thế ? Tất cả đều bắt đầu từ một cảm nghiệm về lòng thương xót của Chúa trong việc Chúa Giêsu trừ quỷ và chữa bệnh cho các bà (x. Lc 8:2). Nhưng chẳng lẽ các ông không đón nhận được những ơn lành đó ? Ngoài Nhóm Mười Hai, sao chẳng thấy ông nào ?
Hình như Chúa Giêsu hấp dẫn phụ nữ hơn phái tu mi, vì họ chấp nhận cách Chúa đối xử với những con người yếu đuối. Về nhiều phương diện, các bà khiến phái tu mi phải ghen lên. Ước vọng sâu xa của phụ nữ là được thuộc về ai. Ðối với họ, tất cả hầu như tự nhiên như hơi thở : liên đới, chia sẻ, đón nhận, yêu đương và thánh thiện. Các bà rảo qua các thành phố và làng mạc với Chúa. Càng theo sát gót Chúa, họ càng vui mừng lắng nghe tiếng Chúa mời gọi vào cõi huyền nhiệm sự sống. Bởi đấy, họ càng dễ dàng bắt được mối tương quan sâu xa với Thiên Chúa, Ðấng đã đến để tha thứ và hòa giải với nhân loại. Con người không thể tự mình bước từ thế giới đầy tội lỗi sang vương quốc đầy ân sủng. Tất cả đều do lòng Chúa xót thương mà thôi. Thái độ biết ơn của phụ nữ làm chứng Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta trong Ðức Giêsu Kitô. Cũng như các người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta cần đến lòng thương xót của Chúa.
Chỉ có lòng thương xót của Chúa mới biến cải chúng ta và toàn thể nhân loại. Chính vì xa lìa lòng thương xót của Chúa, con người đã phá hỏng nhiều mối tương quan. Vì thương xót, Chúa đã tha thứ cho chúng ta. Nếu không cảm nghiệm lòng thương xót trời bể đó, chúng ta không thể tha thứ cho nhau và canh tân cuộc sống. Quả thực, “nếu muốn thực sự yêu thương, chúng ta phải học cách tha thứ.”[4] Sống giữa cuộc đời rất tương đối này, nhiều người không hề biết gì ngoài những đòi hỏi tuyệt đối. Sống chung với họ, chúng ta không thể phát triển, vì họ không biết thông cảm và tha thứ. Tuy thế, dù sống giữa những giới hạn của kiếp người, chúng ta vẫn có thể vươn lên tới mức viên mãn trong Ðức Kitô. Quả thế, thánh Phaolô khuyên : “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại.” (Cl 3:12)
RỒNG GẶP MÂY
Như thế, vì ơn gọi cao cả, Kitô hữu có bổn phận phải biết thương cảm như Ðức Kitô, lý tưởng tuyệt vời cho mọi người, nhất là giới trẻ hôm nay. Sinh ra trong thân phận con người Việt nam, chúng ta càng cảm thấy có trách nhiệm trước những bất công đang diễn ra tại quê hương và trên thế giới. Chỉ khi nào cảm nghiệm được tình yêu tha thứ của Thiên Chúa , chúng ta mới thấy rõ mình phải làm gì để chống lại những bất công đang hoành hành giữa lòng dân tộc.
Thực tế, Kitô hữu Việt nam rất khó thực hiện ơn gọi và sứ mệnh của mình. Tha thứ và hòa giải là những từ mới lạ trong tự điển và hiếm thấy giữa những tương quan xưa nay. Muốn tha thứ và hòa giải, cần phải cởi mở. Tiếc thay, tự bản chất, con người Việt nam rất ích kỷ, khép kín, độc đoán, độc tài. Cộng sản đã tìm được mảnh đất mầu mỡ nơi một xã hội nghèo nàn nhưng lại quá giàu não trạng độc tôn, độc đoán, độc tài như Việt nam. Có thể nói xã hội Việt nam tràn ngập những Pharisêu thời đại. Dựa trên giáo điều Mác Lê, họ chỉ biết kết án kẻ khác. Phải chăng đó là đường lối hòa hợp và hòa giải dân tộc ? Dưới cái nhìn một chiều, họ thấy chung quanh mình đầy dẫy kẻ thù. Không biết nền kinh tế và an ninh xã hội được nâng lên tới mức nào, khi họ đàn áp nhân quyền và tôn giáo ? Phải chăng đàn áp là phương thế hữu hiệu hiệp nhất và phát triển dân tộc ?
Sau những sai lầm trong lịch sử, theo ông Võ Văn Kiệt, Ðảng Cộng sản Việt nam đã phải xét lại chủ trương độc quyền yêu nước của mình. Trong khi đó, nhiều người ở Hải Ngoại vẫn bám riết độc quyền “chống cộng.” Óc độc tài đã ăn sâu vào con người và nếp sống Việt nam. Những ai không theo đường lối “chống cộng” của họ đều dễ dàng bị chụp mũ “Cộng sản.” Từ đó, hận thù và chia rẽ càng khơi sâu. Dân tộc càng lụn bại.
Làm cách nào nâng dân tộc trỗi dậy bây giờ ? Trước hết, phải nâng mức sống công chính của con người Việt nam lên. Bất công lan tràn ngập quê hương. Làm sao có hòa bình nơi đầy bất công như thế. Thực vậy, “hòa bình đích thực là kết quả của công lý … Nhưng vì công lý của con người mong manh và bất toàn, lệ thuộc vào những giới hạn và tính ích kỷ cá nhân và tập thể, nên nó phải bao gồm và được bổ sung bằng sự tha thứ. Sự tha thứ hàn gắn và tái thiết những tương quan rối loạn của con người tận nền tảng. Sự tha thứ không hề đối nghịch với công lý. Ðúng hơn, đó là công lý trọn vẹn, đưa tới sự quân bình trật tự, hơn là chỉ chấm dứt tình trạng thù nghịch, vì chữa trị những vết thương sâu xa đang mưng mủ trong tâm hồn con người. Công lý và sự tha thứ đều tối cần cho việc chữa trị đó.”[5]
Làm sao tha thứ cho nhau, nếu không có một tấm lòng bao dung như như Thiên Chúa ? Tính ích kỷ là thủ phạm gây nên cảnh huynh đệ tương tàn. Vỏ ốc bây giờ đã biến thành bức tường dầy đặc. Làm sao chọc thủng nổi bức tường đó, nếu chúng ta không biết tha thứ cho nhau ? Câu trả lời chỉ có thể tìm thấy nơi Ðức Giêsu Kitô.
Lạy Chúa, xin cho con cảm nghiệm sâu xa lòng thương xót của Chúa trong cuộc đời của con. Xin cho con có một tấm lòng bao dung như Chúa, hầu con có thể tha thứ và chấp nhận anh em trong công cuộc xây dựng Nước Chúa trên quê hương con hôm nay. Amen
đỗ lực 17.06.2007