Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Đinh Văn Tiến Hùng
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm BÙI NINH
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  Tin Tức & Sự Kiện
VÀI NÉT GIỚI THIỆU VỀ NHÀ THỜ CHÍNH TOÀ GIÁO PHẬN LẠNG SƠN

 

Nhà thờ hiện nay trong địa phận: 10

I. TÌNH TRẠNG NGHỆ THUẬT THÁNH TRONG GIÁO PHẬN

Lịch sử sơ lược. Năm 1913 Giáo phận Lạng sơn được thành lập, gồm phần đất tỉnh Lạng sơn – Cao bằng và một phần thuộc tỉnh Hà giang, đặt dưới sự coi sóc của các linh mục dòng Đa-minh Lyon Pháp. Cha chính Bertrand Cothonay, vị phủ doãn tông toà đầu tiên đã cho xây dựng nhà thờ chánh toà, tiểu chủng viện thánh Tê-rê-xa bên Mỹ sơn, nhà thờ Mỹ sơn… Tiếp đó các đấng kế vị như Đức Cha Félix Hedde và Đức Ca André Jacq tiếp tục cho xây dựng các cơ sở vật chất cho Giáo phận. Tới năm 1954, Giáo phận đã có tổng cộng hai mươi hai nhà thờ, một tiểu chủng viện, và một số cơ sở tôn giáo khác trên núi Mẫu sơn. Riêng tại tỉnh Lạng sơn có mười hai nhà thờ, Cao bằng có mười và Hà giang chưa có. Nhằm giúp hơn năm ngàn tín hữu sống rải rác, hầu hết các công trình lúc đó thường xây dựng nhỏ bé vừa phải, phù hợp với nhu cầu thực tế, nhưng không thiếu tính mỹ thuật, lại phù hợp với hoàn cảnh và văn hoá vùng cao, như nhà thờ Bản Lìm, nhà thờ Thất Khê hay nhà thờ Mỹ Sơn.

Sau biến cố năm 1954 và cuộc chiến tranh biên giới năm 1979, Giáo phận Lạng sơn gặp nhiều khó khăn vì giáo dân bỏ xứ đi nơi khác sinh sống. Số còn lại phải lầm than vất vả, nhiều nhà thờ phải đóng cửa vì không có chủ chăn, hoặc đổ nát, vì không có người thường xuyên lui tới. Nhà thờ chánh toà cũng chung số phận, do bom đạn tàn phá. Giáo phận tạm dùng một căn nhà nhỏ bé, chật chội ở khu đất Cửa nam, Văn miếu, để làm nhà thờ chánh toà trong suốt hai mươi lăm năm qua với quả chuông được treo trên cành nhãn.

Tới năm 1999 Đức Cha Giuse Ngô Quang Kiệt về làm Giám mục Lạng sơn - Cao bằng. Ngài đã bắt đầu cho tu bổ lại một số nhà thờ đổ nát, xuống cấp và xây dựng nhà thờ chánh toà mới theo tinh thần hội nhập văn hoá.

II. GIỚI THIỆU MÔ HÌNH KIẾN TRÚC NHÀ THỜ CHÁNH TOÀ LẠNG SƠN

Mô hình kiến trúc được kết hợp bởi kiểu nhà sàn các dân tộc Miền núi phía Bắc và bộ mái cong kiểu cung đình Việt nam. Có diện tích chiều ngang ba mươi mét và sâu hai mươi lăm mét cả hành lang, có ba lối để lên sàn nhà thờ, nhà thờ có hai mái bộ xếp lên nhau khoảng cách bằng một bức tranh kính mầu, mái trên tượng trưng cho Trời, mái dưới tượng trưng cho Con Người, sàn móng vuông tượng trưng cho Đất, theo quan niệm Thiên, Địa, Nhân, Hoà, nghĩa là con người được hoà giải với Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô qua Mầu Nhiệm Thập giá. Cây tháp chính năm tầng được xây dựng liền với tiền sảnh nhà thờ ngụ ý nói đến Mầu nhiệm Năm Sự Sáng và năm yếu tố tổng hợp, vũ trụ quan Đông phương: Kim-Mộc-Thuỷ-Hoả-Thổ.

 
 
 
 

Hai hướng Bắc-Nam của nhà thờ xây hai tháp nhỏ có hai tầng, mỗi tháp treo một đèn lồng bằng gỗ thắp sáng; phía bắc ngầm nói đến ý truyền giáo lên tỉnh Cao bằng và Hà Giang, phía nam nói đến công việc truyền giáo cho tỉnh Lạng sơn. Tất cả các mái nhà thờ và mái các tháp, đầu mái hơi cong lên, và được lợp ngói âm dương màu xanh, diễn tả tâm hồn siêu thoát muốn vươn lên tới Chúa và ngầm hiểu về con thuyền của nền Văn hoá Nông nghiệp Việt nam.

1. Khu sân chính

Cảnh đẹp thiên nhiên ở đây hài hoà với công trình kiến trúc, từ cổng tam quan chay theo trục lộ Văn Miếu tiếp nối với đường Tổ sơn, tạo cho người xem cảm giác dễ chịu. Đây là dãy tường thành cao hai mét, được trang trí bằng những hoạ tiết thuyền, chim Lạc Việt, hạt giống, trái tim, và thập giá. Tất cả đều muốn nói lên việc truyền giáo ở Việt nam và tỏ lòng kính nhớ tổ tiên Lạc Hồng.

Từ hướng tam quan theo lối chính đến tiền sảnh nhà thờ, con đường lớn rộng năm mét, dài ba mươi mét, nằm giữa khoảng sân tiếp nối đường kiệu hình bát giác, có những lối đi nhỏ dẫn đến tượng đài Đức Mẹ và thánh Đa Minh. Phía trước tiền sảnh nhà thờ, có đặt mười hai trống đồng ngầm nhắc mọi người nhớ đến truyền thống đoàn kết tốt đẹp của cha ông.

2. Tượng đài Đức Mẹ và tượng thánh Đa Minh

Từ sân nhà thờ theo hướng Nam, du khách có thể đến xem tượng đài Đức Mẹ theo những lối mòn qua những ụ đất thấp. Tượng đài được chạm bằng một phiến đá quí màu trắng, cao hai mét sáu mươi, nặng gần một tấn, do các nghệ nhân điêu khác nổi tiếng của vùng Non nước (Đà nẵng) thực hiện. Tượng được tạc theo hình dáng một phụ nữ người Tầy và đặt trong một hang đá nhỏ với quần thể núi non thấp, hình thác Bản Dốc, một địa danh lừng lẫy của tỉnh Cao bằng.

Đối diện với tượng đài Đức Mẹ là tượng đài Thánh Đa-Minh, bổn mạng của nhà thờ. Tượng Thánh nhân cũng được tạc trên một tảng đá quý màu trắng, cao hai mét sáu mươi, nặng gần một tấn do các nghệ nhân nói trên thực hiện. Gương mặt Thánh nhân tươi trẻ mang vóc dáng và hình hài Việt nam, tay phải cầm ngọn đuốc cháy sáng, tay trái mang sách Thánh Kinh. Thánh nhân đứng trên thửa ruộng bậc thang như đứng trên cánh đồng truyền giáo để chiếu sáng Đức tin và rao giảng Tin mừng, theo lý tưởng dòng tu ngài đã thành lập là Dòng Anh em giảng thuyết (O.P: Ordo Praedicatorum).

3. Tiền sảnh nhà thờ

Khi đến tiền sảnh nhà thờ, du khách có thể nhìn xem tác phẩm Nước thanh tẩy chạm vằng đá trắng, rộng ba mét rưỡi, dài mười hai mét trải dài trên mặt sàn cầu thang. Tác phẩm chia làm ba phần: phần một gợi nhớ tầu ông No-ê trên biển khơi lênh láng. Oâng No-ê đang ló đầu ra khỏi tầu để xem có thấy chim bồ câu trở về báo hiệu trận lụt sắp qua hay không. Phần hai nhắc lại cảnh ông Mô-sê đưa người Do thái vượt qua Biển đỏ cùng với hành trang và gia súc. Nước rẽ ra sừng sững như từng thành hai bên tả hữu. Phần ba mượn hình ảnh xe nước (cũng gọi là cọn) của dân tộc miền núi. Cọn nước muốn liên tưởng đến phép rửa, nguồn mạch sức sống mới do Chúa Kitô mang lại cho những ai tin và đón nhận Người.

4. Giếng rửa tội và tấm bình phong

Giếng rửa tội hình Thánh giá được ghép bằng đá quí đào lấy ngay ở sảnh chính, lòng giếng ghép bằng đá trắng, mặt trên được bao phủ bằng những tảng đá cuội rộng một mét rưỡi, dài ba mét, sâu bảy mươi lăm phân cùng bảy bậc lên xuống. Giếng này mô phỏng giếng làng của dân địa phương.

Bình phong được dùng để che cửa chính nhà thờ theo quan niệm truyền thống cung đình Việt nam, làm cho ngôi nhà thờ được kín đáo theo luật phong thuỷ, đồng thời cũng tỏ lòng kính trọng nơi tôn nghiêm. Đây là một phiến đá trắng rộng ba mét rưỡi, cao hai mét sáu lăm phân và dày hai mươi phân, diễn tả cảnh Chúa Giêsu đang nói chuyện với người phụ nữ Sa-ma-ri. Trong tư thế nhẹ nhàng, Chúa ngồi bên bờ giếng giữa ánh nắng ban trưa, còn thiếu phụ ở đó để nghe Người nói. Chị ta mặc y phục nùng, bàn tay như muốn rời khỏi vòi nước để đi báo cho những người khác chuyện lạ mình mới được nghe.

5. Phần nhà thờ.

Những hàng cột vuông vững chắc ngoài hành lang có các bệ đỡ đầu cột, kết hợp với hình Thánh giá nhỏ cùng xà dây như hai cánh tay giang ra để đón những hình người đau khổ chịu đóng đinh. Cửa chính nhà thờ là tấm vách gỗ chạm hai Thánh tông đồ Phê-rô và Phao-lô. Thánh Phê-rô tay cầm chìa khoá, đang ngước mắt lên trời. Dưới hồi cửa là hình con gà đang gáy. Còn Thánh Phao-lô, tay ôm sách Thánh, nét mặt đăm chiêu. Bên dưới hồi cửa có chạm thanh kiếm sắc và những bông hồng.

Cửa hông mặt tiền nhà thờ, về phía nam là hình Thánh Gio-an và Lu-ca, về phía bắc là hình Thánh Mát-thêu và Mác-cô. Bốn vị này mang khuôn mặt Việt nam, mặc y phục Nùng, tay cầm bút nghiên.

Thánh Mát-thêu mang hình mặt người, vì Tin Mừng thứ nhất bắt đầu từ gia phả Chúa Giêsu theo bản tính loài người. Thánh Mác-cô theo hình mặt sư tử, vì đầu sách Tin Mừng thứ hai nói về Thánh Gio-an Bao-ti-xi-ta là tiếng kêu trong hoang địa có sư tử, cầm thú. Thánh Lu-ca mang hình bò mộng vì đầu sách Tin Mừng thứ ba nói đến tư tế Gia-ca-ri-a dâng chiên bò tế lễ Thiên Chúa. Thánh Gio-an mang hình chim ưng, vì đầu sách Tin Mừng thứ bốn nói về Ngôi Lời Nhập thể chứa đựng Mầu nhiệm siêu việt tựa cánh chim bay cao vút.

Phần còn lại là các cửa ra vào bên hông và cửa sổ. Tất cả những thứ này đều mang hình Thánh giá, hoa hồi và hạt giống.

6. Cung Thánh

Cung Thánh được bao bọc bằng gỗ màu gụ gợi ý trầm tư, với rèm trang trí chạm hình thiên thần, cây trường sinh, sồi Mam-rê, bách tùng và những trái đào trường thọ. Kiểu cách này ngụ ý diễn tả sự sống vĩnh cửu nơi Thiên Chúa. Aùnh sáng nhẹ nhàng phát ra từ những tấm kính mầu là có ý tạo ra một bầu khí êm ả, thích hợp cho sự cầu nguyện riêng tư thầm kín, ngoài những buổi cử hành phụng vụ cộng đồng.

  

    

7. Bàn thờ

Bàn thờ là một phiến đá quí. Màu trắng nổi bật, dài hai mét năm mươi phân, rộng chín mươi phân, cao chín mươi sáu phân được chạm khắc tinh vi bằng những hoạ tiết như bánh trường sinh, nho, lúa miến, hoa hồi theo nghệ thuật truyền thống và hiện đại. Bàn thờ được đặt nơi trang trọng nhất trong cung Thánh.

   

 

 

8. Giảng đài

Giảng đài đặt tại phía nam gian cung Thánh, làm bằng một phiến đá quí màu xanh, chạm hình cọn nước đang quay, ngụ ý nói Lời Chúa như nước chảy, được kín múc để tưới vào cánh đồng khô cạn là tâm hồn con người. Cọn nước là một phát minh của dân tộc miền núi.

  

9. Nhà Tạm và Hương án Lời Chúa.

Nhà Tạm làm bằng gỗ, được thiết kế theo mẫu nhà sàn của các dân tộc vùng núi miền Bắc và đặt ở phía nam cung Thánh. Cửa chính nhà Tạm chạm hình trái tim đang bốc lửa cháy.

 
 

Hương án Lời Chúa được thiết kế theo kiểu đình làng Việt nam, đặt tại phía bắc cung Thánh với bốn cột thông thoáng. Giữa cột đình có một ngai nhỏ để sách Thánh Kinh. Đình làng là nơi qui tụ dân chúng thì hương án Lời Chúa cũng là nơi tập hợp tín hữu lại để nghe Lời Chúa.

  

10. Thánh giá, huy hiệu Giám mục

Thánh giá này nhỏ, được chạm bằng gỗ quí, cao bảy mươi phân, rộng năm mươi phân diễn tả cảnh Chúa chịu chết đang hấp hối trên thập giá. Thánh giá được gắn vào một cây trúc, đặt ở phía bên trái cạnh bàn thờ và có thể làm Thánh giá để đi kiệu.

Huy hiệu Giám mục được chạm bằng tấm đá màu trắng đục, rộng năm mươi phân, cao bảy mươi phân, được đặt bên phải cung Thánh kèm theo khẩu hiệu Chạnh lòng thương với các họa tiết trái tim, hoa hồng, chuỗi Mai-khôi.

  

11. Tranh sơn dầu Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi và Thập giá.

Bức tranh sơn dầu, diễn tả Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi và thập giá có kích thước cao hai trăm năm mươi phân và rộng hai trăm ba mươi phân, tả cảnh Đức Giêsu Ki-tô chịu khổ hình thập giá, hiệp thông với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.

Chúa Giêsu ngước mắt lên cùng Chúa Cha, vẻ tha thiết nguyện cầu, cạnh một khoảng cách nhỏ tượng trưng Chúa Thánh Thần. Chúa Cha đầy lòng trắc ẩn, đang nhìn Chúa Con thắm thiết yêu thương; các Đấng có khuôn mặt giống nhau.

  

12. Trần gỗ

Mặt bằng trần gỗ với diện tích bảy trăm năm mươi mét vuông, giật lên bảy cấp, được trang trí chạm khắc mười sáu lồng đèn gỗ, toả ánh sáng vàng. Đỉnh trần cao nhất là hình hoa hồi tám cánh, nơi có hình vòng tròn đồng tâm diễn tả lửa tình yêu và cánh thiên thần bay lượn, xoay quanh hình chén cứu độ.

   

  

 

13. Kính mầu

Hai mươi kính mầu cửa sổ có kích thước một trăm năm mươi phân trên hai trăm phân diễn tả mầu nhiệm Mai khôi, bao bọc chung quanh nhà thờ, bắt đầu từ tay phải Cung Thánh, đi từ Năm Sự Vui đến Năm Sự Sáng. Các Mầu nhiệm này được trình bày theo các nét văn hoá Việt-Nùng.

  

   

 

14. Phù điêu người gieo giống

Hai bức hình có kích thước rộng một thước bốn mươi lăm, dài hai thước bốn mươi được gắn tại hai bức tường nhỏ phần cuối nhà thờ: phía Bắc là tấm phù điêu Người gieo giống, diễn tả cô gái Nùng đang vãi hạt giống trên thửa đất gồ ghề, sỏi đá; bức thứ hai là phục vụ, diễn tả cảnh Chúa Giêsu đang rửa chân cho các Tông đồ. Các vị mặc y phục miền núi.

   

   

 

15. Đường Thánh giá

Mười bốn bức sơn mài dài bảy mươi phân rộng năm mươi phân diễn tả cảnh Đức Mẹ và các nhân vật ăn mặc theo lối Việt-Nùng. Những bức tranh này do các nghệ sĩ Hội Mỹ Thuật thành phố Hồ Chí Minh thực hiện.

 

 

 

 

 

16. Chuông nam

Chuông cao một mét chín mươi, được đúc bằng đồng thau, do các nhóm nghệ nhân thuộc phường đúc xứ Huế thực hiện, trên chuông có khắc hoa văn các dân tộc miền núi, lời thánh vịnh và thơ công giáo. Chuông được treo tại tầng thứ hai của cây tháp.

Trên đây là mấy ý tưởng nói về nhà thờ chánh toà giáo phận Lạng sơn vừa được cung hiến vào ngày mồng hai tháng 10 năm 2004. Hai vị Hồng y và nhiều Giám mục, đông đảo các linh mục, tu sĩ nam nữ cùng bà con tín hữu gần xa tới tham dự. Giáo phận Lạng sơn là một trong những giáo phận nhỏ bé nhất Việt nam tính theo con số giáo dân và nhà thờ hiện tại. Vì thế công trình để giới thiệu chỉ có nhà thờ chánh toà vừa được xây dựng là một công trình mang tính nghệ thuật, (kèm theo một số hình ảnh chụp lại sau đây). Các công trình lịch sử quí không có, công trình khác cũng không, nghệ sĩ sáng tác chỉ có một, cũng là người vừa phụ trách trang trí nhà thờ chánh toà, và đang lo giúp các công trình khác tu bổ hay xây dựng mới.

Lạng sơn tháng 9 năm 2008

.                                       .

Jos ngọc huấn    10/2008

 

Tác giả:  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!