Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Đinh Văn Tiến Hùng
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm BÙI NINH
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  Văn Hóa Xã Hội
VĂN HOÁ VIỆT NAM VỚI ĐẠO CÔNG GIÁO

 

Giống như lửa đốt cháy cây củi nhưng khi củi cháy lại làm cho ngọn lửa bốc cao lên, đạo Công giáo ảnh hưởng đến văn hoá Việt Nam thì văn hoá nước ta cũng tác động trở lại tôn giáo này. Chính quá trình tương tác hai chiều này vừa làm phong phú văn hoá dân tộc vừa làm biến đổi,  “Việt hoá” đạo Công giáo. Đường hướng “ Sống Phúc âm giữa lòng dân tộc” của Giáo hội Công giáo Việt Nam là kết quả của sự tương tác đó.

1. Văn hóa Việt Nam- một nhân tố góp phần làm biến đổi đạo Công giáo xa lạ thành một tôn giáo gần gũi với văn hóa dân tộc

Khái niệm “ Hội nhập văn hoá” ( Inculturation) được Giáo hội dùng vào những năm 70 của thế kỷ trước. Nội dung của nó là “nhập thể Phúc âm vào nền văn hoá bản xứ và cũng là việc dẫn nhập các nền văn hoá đó vào đời sống giáo hội”. Lúc đầu nó chỉ mang tính một chiều, có nghĩa là  “Tin mừng được tháp nhập vào nền văn hoá để sàng lọc và thanh tẩy nó”. Vì vậy mới có hiện tượng bắt giáo dân phải phá bàn thờ tiên tổ, cắt tóc ngắn, mang tên thánh  nước ngoài… Năm 1979, nó mới thêm chiều thứ hai là chọn lọc tinh hoa văn hoá các dân tộc đưa vào sinh hoạt của đạo như dùng các làn điệu dân ca, kiến trúc, nhạc cụ, ngôn ngữ dân tộc…

Những chống đối và cả thất bại buổi đầu truyền giáo đã buộc các giáo sĩ phải “ nhập gia tuỳ tục”. Trước tiên, để có thể giao tiếp với người dân và truyền giáo được thì phải biết tiếng Việt. Vậy là nhiều giáo sĩ đã học tiếng Việt, rồi tìm cách để ghi lại thứ tiếng “ như chim hót” này. Kết qủa là chữ quốc ngữ đã ra đời. Tiếp đó, nhiều kinh, sách của đạo được dịch ra tiếng Việt, tiếng dân tộc thiểu số như Banar, Chàm, Khơme, Cơ Ho từ khá sớm và ngày càng gần gũi với người dân. Tiếng Latinh được thay thế dần  bằng tiếng Việt hoặc chữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Để không trở thành xa lạ, người Công giáo Việt Nam đã sớm gọi tên các danh từ riêng hay kinh nhà đạo của mình theo ngôn ngữ Việt. Ví dụ: Xuân Bích, Biển Đức, Vinh Sơn  Đắc Lộ hay Đức Chúa Trời thay vì gọi là Sulpicien, Benedict, Vincent,  Alexandre de Rhodes hay Deus…

Về phong tục, điều may mắn là đối với Việt Nam, tinh thần hội nhập văn hoá đã có từ rất sớm. Ngay từ khi cử hai Giám mục đầu tiên là F.Pallu và Lambert de la Motte, năm 1659, Roma đã căn dặn: “Các ngài phải cẩn thận giữ mình, đừng ra sức bảo các dân tộc ấy từ bỏ nghi lễ, tập tục, phong cách của họ, miễn là điều đó không ngang nhiên ngược với đạo thánh và phong hoá tốt” . Thế nhưng trên thực tế, không hiểu vì quá nhiệt thành hay vì cứng nhắc mà một số giáo sĩ đã bắt người tân tòng  khi gia nhập đạo phải bỏ y phục truyền thống, cắt tóc ngắn, bỏ tên cúng cơm cha mẹ đặt cho, thậm chí phá bàn thờ tiên tổ… Một số giáo sĩ tiến bộ như Đắc Lộ đã phản đối cách làm này và ủng hộ các tập tục làm đám ma trọng thể, cắm cây nêu ngày tết của người Việt… Tinh thần canh tân của Công đồng Vatican 2 cùng với áp lực từ chính văn hoá của cộng đồng, giáo hội Việt Nam cũng dần chấp nhận cho người Công giáo được làm các nghi lễ theo truyền thống dân tộc qua Thông cáo ngày 14-6- 1965 và Quy định 6 điểm ngày14-11-1974 .

Quan sát một lễ hội Công giáo, người ta cũng thấy không khác đám rước làng bao nhiêu. Cũng trống cái, trống con, hội bát âm, cờ ngũ sắc. Nhìn một đám cưới hay đám tang người Công giáo cũng thế. Bây giờ người Công giáo không chỉ thắp hương trước di ảnh người quá cố mà có nơi còn ghi cả những ước nguyện ra giấy và đốt đi trước bàn thờ nữa.

Một ảnh hưởng của văn hoá Việt là góp phần làm thay đổi thái độ đối với các tôn giáo khác. Văn hóa Việt Nam vốn khoan dung về tôn giáo nên chấp nhận “tam giáo đồng nguyên”, “tam giáo đồng quy”. Khi đạo Công giáo xuất hiện đã coi tất cả các tôn giáo khác là ma quỷ, là đạo dối. Thái độ này bị phản ứng dữ dội của các tôn giáo khác và cả cộng đồng. Đạo Công giáo đã dần dần thay đổi quan niệm. Từ chỗ chỉ chấp nhận hôn nhân cùng đạo đến chỗ gọi các tôn giáo khác “là bạn”, khuyến khích các tín đồ đối thoại, thăm viếng nhau là một bước tiến dài (Thư chung 2003). Từ chỗ độc quyền “ơn cứu độ”, tranh luận để chứng minh Công giáo là đạo chính, lôi kéo tín đồ của các tôn giáo khác đến chỗ thừa nhận giá trị của các tôn giáo bạn, không đặt mục tiêu phát triển tín đồ thành ưu tiên hàng đầu là một thay đổi  lớn trong thái độ của đạo Công giáo với các tôn giáo khác. Đây là điều kiện thuận lợi để đồng bào các tôn gíao trong các làng “xôi đỗ” sống chan hòa với nhau. Những hình ảnh các nhà sư ngồi cạnh các linh mục, giám mục trong các buổi mit tinh hay đồng bào các tôn giáo cùng chung nhau xây nhà thờ, dâng hương trước bàn thờ Phật là minh chứng sinh động cho tình đoàn kết các tôn giáo ở Việt Nam.

Một ảnh hưởng nữa của văn hoá dân tộc là đã tạo ra một diện mạo mới, một bản sắc riêng cho đạo Công giáo ở Việt Nam trên nhiều bình diện từ  nghệ thuật kiến trúc, hội hoạ, thánh nhạc đến các nghi lễ trong  Phụng vụ.

Về kiến trúc, không ít nhà thờ Công giáo dù được xây dựng dưới thời Pháp thuộc, người phương Tây cai trị cả phần đạo lẫn phần đời nhưng vẫn mang đậm phong cách Việt. Có thể kể ra kiến trúc như Cam Ly ( Đà Lạt), Bảo Nham ( Nghệ An), quần thể Phát Diệm (Ninh Bình), … Tại Phát Diệm người ta sử dụng các vật liệu quen thuộc là gỗ, đá, các nét kiến trúc đình chùa truyền thống như cổng tam quan hay mái ngói cong, nhiều tầng. Còn tới thăm nhà thờ Cam Ly( Đà Lạt), người ta lại thấy thấp thoáng ngôi nhà sàn của đồng bào Thượng. Dĩ nhiên, ngay cả trong các kiến trúc  phỏng theo phương Tây như nhà thờ Đức Bà Thành phố Hồ Chí Minh hay Phú Nhai (Nam Định), nhà thờ lớn Hà Nội… người ta vẫn nhận ra bản sắc văn hoá dân tộc qua bàn tay thi công khéo léo của những người thợ Việt Nam. Tại rất nhiều nhà thờ, có các kiến trúc phụ như núi đá nhân tạo, hồ ao, cây xanh như một vũ trụ thu nhỏ theo quan niệm “thiên địa nhân nhất thể” của người phương Đông. Các bức chạm khắc quanh nhà thờ cũng đủ cả đào, cúc, trúc, mai, long, ly,  quy, phượng. Các gian nhà thờ cũng thường là số lẻ 5,7,9 còn chỗ ngồi thì chia ra “ nam tả, nữ hữu”. Nhiều nhà thờ mới xây dựng gần đây như nhà thờ Cửa Nam  (Lạng Sơn) cũng mang dáng dấp kiến trúc nhà ở của người dân tộc Tày, Nùng. Còn nhà thờ Pleichuet  (Gia Lai) lại thiết kế giống hệt ngôi nhà rông của người Jarai, Bahnar với chiếc mái cao 35m trông như một lưỡi rìu khổng lồ…

Về hội hoạ, từ trước tới nay, các tranh ảnh đạo hầu hết là do các hoạ sĩ phương Tây sáng tác nhất là giai đoạn Phục hưng và được coi là ảnh thánh. Thế nhưng, nhiều hoạ sĩ Công giáo Việt Nam vẫn băn khoăn, tại sao người Việt cũng được dựng lên theo hình ảnh Chúa mà tranh đạo toàn thấy gương mặt người châu Âu? Một số hoạ sĩ thử tìm tòi và đã thành công. Có thể kể ra Madalena dưới chân Thập giá của Lê Văn Đệ, bức tranh sơn dầu Đức Mẹ Việt Nam của Nam Phong,  Giáng Sinh của danh  hoạ Nguyễn Gia Trí, những tranh lụa về Đức Mẹ của hoạ sĩ Nguyễn Thị Tâm…Các nhân vật trong tranh thật gần gũi, cũng  nón lá, áo dài tứ thân, đầu chít khăn mỏ quạ. Xen vào đó là hình ảnh con trâu, khóm tre bên mái nhà tranh đơn sơ…Một số tác phẩm đã đoạt giải quốc tế và được trưng bày ở bảo tàng nước ngoài.

Theo con đường Việt hoá này, thánh nhạc Việt Nam đã gặt hái được khá nhiều thành công. Ngôn ngữ dùng trong nghi lễ, phụng vụ Công giáo trước đây là latinh vì vậy mới có câu: “Các thày đọc tiếng latinh/ Các cô con gái thưa kinh dịu dàng”. Nhưng trong điều kiện dân trí còn thấp làm sao người ín hữu có thể miệng đọc tâm suy được? Thế là một số nhạc sĩ đã thử dịch các bài thánh ca ra tiếng Việt, rồi dùng các điệu dân ca như lưu thuỷ hành vân, nam ai, hát đò để ghi lại. Nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh với nhiều tên tuổi nổi tiếng như Hùng Lân, Tâm Bảo, Nguyễn Khắc Xuyên, Hoài Đức… đã ra đời chuyên viết thánh nhạc với phương châm “Về nội dung phụng sự Thiên chúa và Tổ quốc…Về nghệ thuật lấy dân ca cổ truyền làm cấu trúc âm thanh” . Một số tác phẩm đã nổi danh trên thế giới như  Đêm đông của Hải Linh, Kinh hoà bình của Kim Long… Giai điệu quen thuộc từ các làn điệu dân ca ở Bắc bộ đến hát then xứ Lạng, từ quan họ Bắc Ninh duyên dáng đến Jarai, Banar  bốc lửa…đều có thể tìm thấy trong các bản thánh ca.

Về văn học,  nếu ngay từ buổi đầu của đạo Công giáo ở Việt Nam đã có nhiều người dùng các thể loại thơ ca truyền thống để ghi lại sự tích Kinh thánh, giáo lý thì ngày nay cách làm này vẫn được duy trì. Các bản dịch Kinh thánh, sách lễ ngày càng sát và hay hơn với ngôn ngữ tiếng Việt và cả tiếng các dân tộc thiểu số nữa. Nếu trước đây việc xuất hiện một bản Các Thánh truyện của Majorica bằng chữ Nôm, một vở tuồng Thương khó của Giám mục Nguyễn Bá Tòng là rất hiếm thì ngày nay nhiều tác phẩm thơ văn, ca kịch cũng được viết bằng ngôn ngữ, phong cách dân tộc như các tập thơ của Hàn Mặc Tử, Xuân Ly Băng; các tác phẩm ký của Hồng y Trịnh Văn Căn, Giám mục Nguyễn Văn Sang…cũng đã được các Nhà xuất bản giới thiệu với bạn đọc.

Một nội dung mà bản Monita đã viết năm 1659 là phải đào tạo hàng ngũ giáo sĩ người bản xứ vì nếu Giáo hội Việt Nam vẫn do hàng giáo sĩ người nước ngoài điều hành thì khó có thể hội nhập văn hoá được. Tiếc rằng, điều này  thực hiện rất chậm chạp. Mãi sau 135 năm truyền giáo mới có 4 người Việt được phong chức linh mục (1668)  và 400 năm sau, năm 1933 mới có vị Giám mục đầu tiên là người Việt. Số liệu thống kê từ năm 1863 đến năm 1945 cho thấy chỉ có 153 tu sĩ Việt Nam được lên chức linh mục. Năm cao nhất là năm 1937 có 10 tân linh mục, còn các năm khác chỉ có 5- 6 vị. Nguyên nhân là do đầu óc kỳ thị người bản xứ của hàng giáo sĩ nước ngoài. Chỉ đến khi nước nhà độc lập, hàng giáo sĩ Việt Nam mới được tăng trưởng mau chóng. Năm 1960, Toà thánh đã thiết lập hàng giáo phẩm Việt Nam và đến cuối năm 2006 số linh mục Việt Nam đang sống và làm việc là 3404 vị và 43 Giám mục, 2 Hồng y.

2. Văn hóa Việt Nam góp phần hình thành và phát triển con đường “đồng hành cùng dân tộc” của Công giáo Việt Nam.

Khái niệm “đồng hành”  không phải mới xuất hiện từ Thư chung 1980 mà đã được danh nhân Nguyễn Trường Tộ nêu lên từ năm 1863 và chính bản thân ông cũng là chứng từ sống động cho con đường đồng hành cùng dân tộc. Theo tinh thần của đạo Công giáo thì “đồng hành cùng dân tộc” đó là: giáo hội cùng chia sẻ trách nhiệm với dân tộc và người tín hữu tốt phải là một công dân tốt. Tuy nhiên, trong một số văn kiện, khái niệm “đồng hành cùng (hay với) dân tộc” còn được giáo hội dùng theo nghĩa rộng hơn tức là bao gồm cả việc xây dựng lối sống, nghi lễ của đạo theo bản sắc dân tộc tức hội nhập  văn hoá( Tc 1980, số 9).

Yêu nước là truyền thống của người Việt Nam và là sợi chỉ đỏ xuyên suốt văn hóa Việt. Chính truyền thống quý báu này đã thôi thúc nhiều thế hệ người Công giáo đứng lên chống Pháp. Người đầu tiên đáng nêu tên là nhà cải cách Nguyễn Trường Tộ. Ông đã dâng lên vua 58 bản điều trần mà ngày nay vẫn còn làm ngạc nhiên giới nghiên cứu vì những tư duy táo bạo, đổi mới, vượt lên thời đại bấy giờ. Có những vấn đề ông nêu ra vẫn nóng bỏng tính thời sự đến hôm nay như vấn đề chống tham nhũng, sùng hàng ngoại, rồi “ làm cho dân giàu mà nước cũng giàu”… Nguyễn Trường Tộ cũng là một nhà tư tưởng, một triết gia lớn ở Việt Nam. Chẳng hạn ông viết: “ánh sáng cũng là vật chất trong vũ trụ”(1). Đây là quan điểm duy vật không chỉ mới lạ ở nước ta mà cả với thế giới hồi cuối thế kỷ XIX.

Còn Linh mục Đặng Đức Tuấn (1806- 1874) lại đưa ra  Hiếu sách bình Tây rồi  Minh đạo bình Tây sách tố cáo thực dân Pháp mượn tiếng bảo vệ đạo để xâm chiếm nước ta. Tại Yên Mô ( Ninh Bình), sĩ phu công giáo Đinh Văn Điền, năm 1868 cũng tâu lên vua một loạt kế sách “đặt doanh điền, khai mỏ vàng, đóng tàu thuỷ, mở cửa mời người nước ngoài, lập ra Ty bình chuẩn để lưu thông hàng hoá, tăng lương cho binh lính để chuyên cần tập luyện, khi lâm sự hậu thưởng phẩm vật, khi chết xét dùng con cháu, khi bị thương tật, cấp dưỡng suốt đời” (2). Nhiều người Công giáo cũng tham gia phong trào Cần vương để chống Pháp và trở thành những vị chỉ huy can đảm như Đội Vũ  (người Nghĩa Hưng Nam Định), Lãnh Phiên (người Quảng Bình)… Ngay cả những giáo sĩ đã được đào tạo, huấn luyện bởi người Pháp cũng tham gia các hoạt động chống Pháp. ở Nghệ An, đầu thế kỷ XX, nhiều  tên tuổi Công giáo yêu nước được nhắc đến như tu sĩ Mai Lão Bạng, Lê Khánh, các linh mục Nguyễn Văn Tường, Nguyễn Thần Đồng, Đậu Quang Lĩnh… Họ cũng bị bắt, bị đày Côn Đảo và có người đã chết trong tù ngục. Có một số người đã đi theo cách mạng và trở thành cán bộ cao cấp sau này như Trương Vân Lĩnh (1902-1946), Trần Tử Bình (1903-1967)…

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã thổi bùng lên ngọn lửa yêu nước, tinh thần dân tộc của người Công giáo. Trong rừng người diễu hành qua quảng trường ngày 2-9-1945 có cả đoàn các linh mục, chủng sinh và giáo dân. Bốn giám mục Việt Nam lúc đó đã gửi hai điện văn cho Toà thánh và tín hữu toàn cầu, đề nghị ủng hộ chính phủ Hồ Chí Minh với lời lẽ rất cảm động.

Nhờ chính sách đúng đắn và mềm dẻo của Nhà nước ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, đa số người Công giáo Việt Nam đã tin tưởng đi theo cách mạng. Những ngày đầu kháng chiến gian khổ, giám mục Hồ Ngọc Cẩn (Bùi Chu) đã ủng hộ cả dây chuyền vàng cho chính phủ Việt Minh. Trong nhiều chức vụ quan trọng của Chính phủ, Quốc hội, người ta thấy có mặt người Công giáo như Phạm Bá Trực, Ngô Tử Hạ, Nguyễn Mạnh Hà, Vũ Đình Tụng…Tại miền Nam có nhà cả 3 linh mục, 2 nữ tu đều theo kháng chiến như gia đình linh mục liệt sĩ Nguyễn Bá Luật. Liên đoàn công giáo kháng chiến Nam bộ đã ra đời sau đó là Uỷ ban liên lạc Công giáo kháng chiến đã tập hợp nhiều tên tuổi như các linh mục Võ Thành Trinh, Hồ Thành Biên, luật sư Nguyễn Thành Vĩnh… ở miền Bắc, nhiều cá nhân, tập thể đông người Công giáo đã được tặng danh hiệu anh hùng lao động, anh hùng lực lượng vũ trang… Chiến thắng vĩ đại ngày 30- 4- 1975 đã đem lại cho người Công giáo một cơ hội mới và  thổi sinh khí vào lá Thư chung năm 1980 với đường hướng “Sống Phúc âm giữa lòng dân tộc”.

Vì  xác tín đồng hành cùng dân tộc nên nhiều vấn đề bức xúc của xã hội đã được giáo hội hướng dẫn thực hiện như vấn đề học hành ở vùng giáo, ngăn chặn các tệ nạn như cờ bạc, ma tuý, kêu gọi giáo dân tham gia bầu cử, chấp hành luật giao thông hay quyên góp ủng hộ các nạn nhân bị thiên tai…Có những vấn đề thuộc loại tế nhị như vấn đề dân số, các giám mục cũng mạnh mẽ phê phán  quan  niệm  trời “sinh voi trời sinh cỏ” và cho rằng, quan niệm đó chỉ thích hợp với hoàn cảnh nông nghiệp “ đất rộng người thưa”, còn bây giờ phải “sinh đẻ có trách nhiệm và giáo dục con cái”  (Tc 1992, số 11).

Khi xã hội bước vào nền kinh tế thị trường, nhiều mặt trái gây ra những bức xúc cho dư luận như đạo đức bị xói mòn, tệ nạn xã hội gia tăng… giáo hội Công giáo đã chủ động đẩy mạnh những hoạt động từ thiện, bác ái. Giới Công giáo khắp nơi đã đứng ra tổ chức nhiều  lớp học tình thương, phòng khám bệnh miễn phí, những nhà săn sóc trẻ em lang thang và người già cô đơn… Mặc dù luật pháp hiện hành vẫn chưa cho các tôn giáo trong đó có Công giáo tham gia vào các chương trình y tế, giáo dục, từ thiện một cách độc lập và không bị giới hạn. Đây là một thiệt thòi lớn không chỉ cho công giáo mà cả cộng đồng dân tộc vì công giáo vốn có thế mạnh về các lĩnh vực này. Trước năm 1975, đạo công giáo ở miền Nam đã quản trị 1030 trường tiểu học vơi 258409 học sinh công giáo và 97347 học sinh ngoài công giáo, 226 trường trung học với 82827 học sinh công giáo và 70101 học sinh ngoài công giáo, 41 bệnh viện, 239 nhà phát thuốc, 36 nhà hộ sinh, 9 trại phong cùi, 82 cô nhi viện, 29 trại dưỡng lão (3).

Tóm lại, nhờ gắn bó với văn hoá dân tộc, đạo Công giáo đã có những biến đổi về chất để trở thành  Công giáo Việt Nam chứ không phải là đạo Công giáo ở Việt Nam.

Chú  thích:    

1- Trương Bá Cần: Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo, Nxb T.pHCM 1999, tr419;

2- Đại Nam thực lục chính biên,Nxb  KHXH 1974, tr.262-263

3- Theo Linh mục Nguyệt san, Sài Gòn 1970, số 105, tr.618-619

Tác giả: 

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!