Một hiện thực của giáo hội
Công giáo Việt Nam: Giữ đạo thì xem ra khá kỷ, khá nghiêm, còn truyền giáo thì
hình như bị xem nhẹ nếu không muốn nói là xao nhãng không chỉ ở một vài nơi mà
có thể là tại nhiều giáo phận. Kết thúc năm thánh truyền giáo 2004, văn phòng
Thư ký Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã từng làm bản thống kê về các hoạt động
truyền giáo và con số người tòng giáo trên toàn quốc và đã kết luận: “Qua những
số liệu trên chúng con thấy rằng kết quả của Năm Thánh Truyền giáo vừa qua còn
hạn chế, chưa gây được ý thức truyền giáo cho nhiều người, số người theo đạo
còn thấp, số người lớn được rửa tội năm vừa qua chưa được 30.000 người, những
hoạt động xã hội còn ít…(Hiệp Thông số 26-27- trang 118). Trong số chưa được
30.000 người trên thử hỏi có được bao nhiêu người vào Công giáo không vì lý do
hôn nhân?
Nhiều lý do để bào chữa được
đưa ra nào là bà con quá gắn bó với truyền thống tổ tiên và còn hiểu lầm rằng
theo Công giáo là bỏ ông bỏ bà; nào là các tôn giáo khác chẳng hạn như Phật
giáo đã bám rễ sâu trong lòng người dân; nào là một số người vì vô tri mà hiểu
lầm hoặc cố tình xuyên tạc đạo Công giáo là phản khoa học, là dính dáng với đế
quốc…Những lý do được đưa ra thường mang tính khách quan, nghĩa là phía người
ngoài Công giáo. Còn các lý do về phía chủ quan tức là người Công giáo thì có
lẽ chưa được phân tích nhiều và đầy đủ.
Có người biện bạch rằng
truyền giáo hiện nay chủ yếu là Phúc Âm hoá, nghĩa là làm dậy men Tin Mừng môi
trường sống. Điều này hẳn không sai nhưng có lẽ chưa đủ. Khi truyền dạy các môn
đệ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ
nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều
Thầy đã truyền cho anh em”(Mt 28,19-20), thì chắc chắn Chúa Kitô không chỉ muốn
người ta được “dậy men Tin Mừng” mà con muốn quy tụ mọi người vào một ràn chiên,
nghĩa là mọi người được vào làm con cái Thiên Chúa trong một cộng đoàn cụ thể,
để sống tình huynh đệ, được hưởng nhận ân lộc thánh thiêng qua Lời Chúa và các
Bí tích…Không dám mạn bàn đến những lý do thần học cao siêu, chỉ xin có một vài
nhận định qua các dữ kiện thực tiễn của giáo hội Công giáo tại Việt Nam.
Phải chăng các chương trình
cũng như hoạt động truyền giáo chưa được quan tâm đúng mức? Xét trên bình diện
các giáo phận thì có thể nói rằng ngoại trừ một vài giáo phận vùng cao, có
nhiều anh chị em sắc tộc, thì vẫn có đó nhiều giáo phận chưa đặt nặng công cuộc
truyền giáo, cụ thể là qua các chương trình và hành động cụ thể mang tính ưu
tiên, liên tục và lâu dài. Cũng có thể là do hoàn cảnh lịch sử, do những luật
lệ xã hội bất cập và còn tồn tại tính hạn chế tôn giáo (lại đổ lỗi cho khách
quan), nên giáo hội Việt Nam, đặc biệt là các đấng bậc có trách nhiệm đã một
thời gian khá dài chỉ loay hoay lo chuyện giữ đạo hơn là truyền đạo. Khi thời
thế có vẻ “dễ thở” hơn một chút thì xứ xứ, dòng tu dòng tu, giáo phận giáo phận
lại chăm chú chuyện củng cố nội bộ, xây dựng cơ sở vật chất hoặc tự bằng lòng
với những cuộc “lễ lạc-rước xách” hay “hội nghị” này nọ mang tính hoành tráng
bên ngoài. Những hoạt động này dẫu sao cũng đem lại chút khích lệ cho tín hữu
giáo dân, nhưng hình như chỉ mang tính “lưu hành nội bộ”. Xin đừng quên rằng
các hoạt động “hoành tráng” bên ngoài có khi lại trở nên nguyên cớ nảy sinh sự
hiểu lầm, lòng ganh tương đố kỵ nơi anh chị em lương dân và bà con khác đạo.
Sẽ là bất cập hay thái quá
và chắc chắn là không thể chính xác khi nhận định đúng sai, hợp lý hay không về
chương trình của các đấng bậc hữu trách. Thế nhưng cần nhìn nhận một thực tế,
đó là đang còn tồn tại cái tâm lý tự mãn chen lẫn sự tự ti nơi cả hàng mục tử
lẫn đàn chiên Công giáo Việt Nam.
Tâm lý tự mãn: Trong hoàn cảnh còn nhiều khó khăn mà
còn giữ được các sinh hoạt tôn giáo là tốt rồi. So với thời gian trước đây, đặc
biệt sau năm 1975, thì hôm nay các cơ sở thờ tự, các sơ sở tôn giáo như là nhà
thờ, chủng viện, dòng tu được xây cất to lớn, hiện đại là tốt rồi. Vì nhu cầu
sinh kế, tín hữu giáo dân tủa đi nhiều nơi và đã hình thành thêm nhiều giáo họ,
giáo xứ mới. Con số người gia nhập các hội dòng, các chủng viện trên dưới mười
năm trước đây đã tăng vọt, cho dù hiện nay như có chửng lại, nhưng xét về con số
tuyệt đối thì khó có nơi nào bì, nhất là so với các nước Âu- Mỷ. Các đại hội
tại nơi này hay linh địa kia vẫn diễn ra cách “hoành tráng”, cả về số lượng
người tham dự lẫn quy mô tổ chức. Nhiều cuộc lễ như tấn phong giám mục, truyền
chức linh mục, khấn dòng, kỷ niệm ngân khánh, kim khánh, lễ tạ ơn…vẫn diễn ra
với mật độ quá dày đến nỗi nếu ta có chút vai vế hay chút liên hệ mà tham dự
thì dù vắt chân lên cổ cũng không thể xuễ và dĩ nhiên là sẽ bỏ bê nhiều công
việc bổn phận khác.
Mình đâu có chủ động, tình
thế là vậy, chắc Chúa sẽ thông cảm. Thời giờ khít rịt, nhiều khi phải chạy sô.
Được mặt này thì mất mặt kia. Việc đi đến với anh em lương dân, với bà con khác
đạo có bị chễnh mảng đôi chút thì chịu vậy. Ai lại không muốn chu toàn nghĩa vụ
truyền giáo, nhưng lực bất tòng tâm! Và biết đâu những việc mình đang làm cũng
là truyền giáo rồi vậy? Thiếu vắng hồn tông đồ thì khi hoàn cảnh đổi thay như
trường hợp dịch bệnh đang xảy ra thì đa số đều co cụm trong sự thụ động trên
mức bình thường.
Mặc cảm tự ti: Trong khi bà con tín hữu giáo dân hồ
hởi, có khi là hãnh diện qua các lễ hội “trong khuôn viên cơ sở thờ tự”, trong
khi các mục tử lại tự hài lòng về những tổ chức “đình đám và cả hoành tráng”
dịp này dịp kia…thì vẫn còn đó tâm lý tự ti nơi các thành phần dân Chúa khi ra
ngoài xã hội. Cụ thể như sau:
Các em học sinh, sinh viên
công giáo chưa mạnh dạn tỏ bày căn tính Công giáo của mình nơi môi trường học
đường. Các công viên chức thì sao đây? Đã từng thử làm thống kê với khoảng trên
hai trăm thầy cô giáo, thì biết được sự thật này: Còn đó một thiểu số quý thầy
cô giáo ngần ngại tỏ lộ căn tính Công giáo của mình nơi môi trường học đường.
Những vị trong ngành giáo dục với mặt bằng tri thức không kém chút nào, với
chức năng và công việc cao quý và đáng trân trọng mà vẫn còn tồn tại biểu hiện
mặc cảm tự ti thì những người ở các ngành, các lãnh vực khác chắc sẽ không khá
hơn bao nhiêu.
Một hình thức
“tốt đời –đẹp đạo”: Đã là con dân
đất Việt thì không xa lạ gì cụm từ “tốt đời – đẹp đạo”. Đây là cụm từ mà chính
quyền Việt Nam đã không ngừng tuyên truyền và chắc chắn có hậu ý đằng sau. Một
khi đã không còn tính thuyết phục và hữu hiệu với chủ trương và chính sách xem
“tôn giáo là thuốc phiện”, vì hai từ thưốc phiện dễ gây phản cảm, thì người ta
muốn biến niềm tin tôn giáo, đúng hơn là các sinh hoạt tôn giáo trở thành một
mảng văn hoá nghệ thuật, cho dù có thể ở cấp độ cao hơn chút nào đó. Người ta
muốn biến sinh hoạt tôn giáo thành một hình thức lễ hội hay một nghệ thuật giải
trí, giải tâm mang tính phụ thêm cho các sinh hoạt khác của cuộc nhân sinh cũng
như thể thao, hội hoạ, điện ảnh… Như thế niềm tin tôn giáo của người dân sẽ bị
giới hạn nơi các sinh hoạt tôn giáo và rồi sẽ ít có liên hệ đến cuộc sống đời
thường.
Đời sống đạo của Kitô hữu
Việt Nam vì thế cũng dường như bị giới hạn nơi các hình thức “kinh, lễ, rước
xách”. Khi trở về với đời thường, người ta sao thì tôi vậy. Lắm khi người ta
làm bậy, tôi làm thinh mà có khi cũng làm theo. Cuộc sống vì thế như bị tách
hai phần, phần đời và phần đạo khá rõ rệt và ít có liên hệ đến nhau. Cái phần
đạo dường như ít mang tính nhu cầu nghĩa là cần thiết liên lĩ cho cuôc sống,
ngoại trừ những khi gặp nghịch cảnh hay tai ương hoạn nạn. Niềm tin tôn giáo,
qua các sinh hoạt bên ngoài như trên đã trở thành một phần phụ thêm cho người
có tín ngưỡng và vì thế nó mang tính vị kỷ. Và khi tính vị kỷ chen vào thì nhu
cầu chia sẻ, yêu cầu truyền giáo sẽ ít đi, vì các hình thức lễ lạc, hội hè,
rước xách như đã đáp ứng nhu cầu vị kỷ ấy.
Dấn thân vì một
nền hoà bình trong công lý và sự thật: Một trong vài Uỷ Ban thuộc Hội Đồng Giám Mục xem ra rất
khiêm tốn về quy mô hoạt động cũng như các chương trình cụ thể, chưa kể là
những cuộc hội họp báo cáo hay tổng kết...đó là Uỷ Ban Công Lý và Hoà Bình.
Men, muối mà vón cục thì không chỉ mất hiệu năng mà thậm chí không còn lý do để
tồn tại. Xã hội trần thế này chính là môi trường mà men muối phải tan mình đi
cho nó mặn lên và dậy men. Phải chăng trong hoàn cảnh nước nhà hiện nay thì
lãnh vực này xem như là nhạy cảm và vì thế chúng ta quá dè dặt đến độ chỉ biết
làm kiểu như không làm hay làm cách chiếu lệ bổn phận xây dựng một nền hoà bình
trong công lý và sự thật? Lịch sử cho thấy mỗi khi dấn thân vào lãnh vực này
thì luôn có đó mầu nhiệm thập giá cách nhãn tiền.
Chúng ta hãnh diện và tôn
vinh các bậc cha ông anh hùng tử đạo là điều chính đáng và phải đạo. Thế nhưng
khi nỗ lực làm cho dòng máu ấy tươi thắm theo dòng thời gian bằng chính cuộc
sống không quản ngại gian nguy của chúng ta thì đẹp lòng cha ông hơn nhiều.
Chắc chắn đã từng có đó nhiều vị thánh tử đạo không phải trả giá bằng cái chết
công khai mà chỉ bằng những hy sinh cách này cách khác vì danh Chúa Kitô (vì
công lý, vì sự thật, vì tinh yêu…).
Nếu giáo hội Việt Nam có
càng nhiều vị thánh tử đạo bằng hình thức này hay hình thức khác thì công cuộc
truyền giáo sẽ phát triển không ngừng. “Máu các thánh tử đạo là hạt giống làm
phát sinh người có đạo”. Câu nói của Tertulianô là một chân lý mà các vị mục tử
hàng đầu trong giáo hội thường nhắc đi nhắc lại. Có thể nói không sợ sai lầm
rằng sống tinh thần tử đạo là cách thế truyền giáo tốt đẹp và hữu hiệu hơn
nhiều chiến dịch với khẩu hiệu, bích chương hoành tráng bên ngoài.
Không ai có thể
trao ban điều mình không có: Thử hỏi có
được bao nhiêu Kitô hữu Việt Nam, từ người giáo dân đến hàng tu sĩ, linh mục,
giám mục xác tín rằng niềm tin Kitô chính là lẽ sống của mình, là kim chỉ nam
chi phối, đúng hơn là hướng dẫn mọi hành vi, mọi chương trình hoạt động của
mình? Để trả lời câu hỏi này thì chúng ta cần xem xét các hành vi, các chương
trình hoạt động và việc làm của chúng ta mang tính Kitô được bao nhiêu phần
trăm. Chúng ta có chân nhận hồng ân đức tin như là kho tàng vô giá chôn dấu
trong ruộng hay như viên ngọc quý để rồi sẵn sàng bán đi tất cả hầu chiếm hữu
cho kỳ được chưa? (x.Mt 13,44-46). Sự thường tốt thì khoe, xấu thì che. Một khi
vẫn còn mặc cảm tự ti một cách nào đó về căn tính Công giáo của mình thì chúng
ta phải đấm ngực thú nhận mình chưa trân trọng, chưa quý trọng cách đúng đắn và
đầy đủ hồng ân đức tin đã lãnh nhận.
Vô phúc cho tôi, nếu tôi
không rao giảng Tin Mừng (1Cr 9,16). Một thực tế mà chúng ta phải đón nhận như
lời Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Thầy sai anh em đi như chiên con đi giữa
bầy sói. Đừng mang theo túi tiền, bao bị giày dép…”(Lc 10,3-4). Thế mà chúng ta
lại thích được sai đi với xiêm y lộng lẫy, với trống kèn, rước xách đón đưa. Đã
có tinh thần truyền giáo thì luôn có đó những việc nên làm và phải làm dù khi
thuận tiện hay lúc gặp khó khăn (x.2Tm 4,2).
Lm.
Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột