ĐƯỢC SAI ĐI LÀM CHỨNG CHO NIỀM VUI VÀ HY VỌNG
Hôm nay khi sai các môn đệ đi truyền giáo, Chúa mời gọi họ hãy buông bỏ.
Họ phải tập trung vào nhiệm vụ duy nhất của mình là xua trừ ma quỷ: “Ngài ban cho các ông quyền trừ quỷ” (Mc
6:7) và chữa lành người bệnh: “Các ông trừ
được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh” (Mc
6:13). Là những người rao truyền Tin Mừng ngày nay, mỗi người chúng ta tự hỏi
liệu mình có thực sự tuân theo sứ mệnh đã nhận được vào ngày chịu phép rửa tội hay
không. Chúng ta hôm nay là sứ giả của Tin Mừng Cứu Độ hay của sự chia rẽ, hủy
hoại, nơi chúng ta sống và làm việc?
1. Đưa mọi người trở lại quyền thủ
lãnh của Chúa Kitô
Việc “quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một
thủ lãnh là Chúa Kitô” (Ep 1:10) và việc đưa con người trở lại sự vâng phục
Thiên Chúa là lệnh truyền của Chúa Kitô. Ngài sai các tông đồ khi xưa, và tất cả
chúng ta ngày nay, đi rao giảng, làm chứng cho Tin Mừng: “Ngài gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một”
(Mc 6:7). Mục tiêu mà mọi nỗ lực của chúng ta phải hướng tới là đưa mọi người
trở lại quyền thủ lãnh của Chúa Kitô: “Các
ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối” (Mc 6:12). Khi ấy, con
người sẽ thấy mình được đưa đến với Thiên Chúa: không phải là một Thiên Chúa xa
vời không quan tâm đến thực tại con người, như một số triết gia đã tưởng tượng,
mà là một Thiên Chúa hằng sống và chân thật. Ngài là Đấng sáng tạo thế giới, ôm
trọn tất cả mọi thứ trong sự quan phòng yêu thương vô hạn của Ngài. Thánh
Phaolô trong bài đọc thứ hai nói: “Chúc tụng
Thiên Chúa là Thân Phụ Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong Chúa Kitô, từ cõi
trời, Ngài đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần.
Trong Chúa Kitô, Ngài đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh
nhan Ngài, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Ngài. Theo ý
muốn và lòng nhân ái của Ngài, Ngài đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Chúa
Giêsu Kitô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Ngài ban tặng cho
ta trong Thánh Tử yêu dấu” (Ep 1:3-6).
Vậy thì, đâu
là con đường đưa chúng ta đến với Chúa Giêsu Kitô? Con đường đó ở trước mắt
chúng ta: là Giáo hội. Thánh Gioan Kim Ngôn (Chrysostom) đã nói rất đúng với
chúng ta: “Giáo hội là niềm hy vọng của bạn,
Giáo hội là sự cứu rỗi của bạn, Giáo hội là nơi nương náu của bạn” (Bài giảng
thứ II về Eutropius). Trong Giáo Hội này chúng ta lãnh nhận phép Thánh Tẩy, trở
thành ngôn sứ của Chúa Kitô, của Tin Mừng Cứu Độ của Ngài. Hiến chế tín lý về
Giáo Hội của Công Đồng Vatican II dạy rằng: “Mầu nhiệm Giáo Hội được biểu lộ qua sự việc thành lập. Thực thế, Chúa
Giêsu đã khai sinh Giáo Hội bằng việc rao giảng Tin Mừng cho biết Nước Thiên
Chúa đã đến như đã hứa trong Kinh Thánh từ ngàn xưa: ‘Thời gian đã trọn; Nước
Thiên Chúa đã đến gần” (Công Đồng Vatican II, Hiến chế Lumen Gentium, số 5).
Tất cả chúng ta đều trở thành những ngôn sứ. Theo Kinh thánh, ngôn sứ không phải
là thầy bói nói trước về tương lai; nhưng đó là người nói và làm chứng cho Thiên
Chúa, cho những điều thuộc về Thiên Chúa vốn không thể biết được. Và hôm nay
Chúa Kitô sai tất cả chúng ta đi rao truyền Tin Mừng của Ngài, làm chứng cho
Tin Mừng đó. Điều đó có thể dẫn tới những nguy hiểm. Nhưng nguy hiểm nhất, thường
ẩn giấu trong tâm tưởng và cõi lòng chúng ta, là không công bố Tin Mừng của
Chúa Kitô nhưng lại muốn truyền bá một hệ tư tưởng vào thế giới. “Ý tưởng của
tôi là tốt nhất, tôi biết điều gì là đúng và tốt nhất.” Trên thế giới này đã có
quá đủ các thứ tư tưởng, các lối quan niệm, các thứ hệ thống triết luận, các thứ
chủ nghĩa...vốn không đem lại yên ổn bao nhiêu cho tâm hồn con người, mà còn
gây ra biết bao xáo trộn trong đời sống cộng đồng xã hội. Không cần phải thêm một
hệ tư tưởng nào như vậy nữa. Điều cần cho tâm tưởng và cõi lòng nhân thế cần khởi
đi từ một Đấng hoàn toàn có thể đáp ứng khát vọng sâu xa nhất của con người: là
sự thanh thản bình an trong cõi nhân sinh này và niềm hy vọng phi thường vào sự
sống muôn đời, sau kiếp người nhiều hỗn loạn và bất an: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy.
Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ
hãi” (Ga 14:27).
2. Chúa Kitô sai chúng ta đi rao giảng
niềm vui, niềm hy vọng
Điều chúng ta
phải làm chứng là một niềm vui, một niềm hy vọng. Làm chứng có nghĩa là biểu
lộ một điều gì đó đã được cảm nghiệm trong tâm hồn mỗi người chúng ta một cách
sâu sắc và chân thật. Chính trong cảm nghiệm nội tâm này chúng ta học biết rằng
Thiên Chúa yêu thương, chọn gọi chúng ta làm con cái tràn đầy ân sủng và phúc
lành cùa Ngài. Điều đó đem lại niềm vui thúc đầy chúng ta ra đi nói với tất cả mọi
người rằng họ cũng được yêu thương, chọn gọi như vậy. Tất nhiên, việc ra đi rao
giảng Tin Mừng không luôn dễ dàng, không thiếu những khó khăn, trở ngại: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con
Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 9:58), ngay cả kết thúc trong bi thảm, như chính
Chúa Kitô đã không che giấu nỗi đau khổ của Ngài trên Thập Giá: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài
bỏ rơi con?” (Mc 15:34). Nhưng sau những khó khăn, trở ngại và nước mắt của
chúng ta, là một niềm hy vọng phi thường, khiến chúng ta đứng lên. Chúa Kitô, vốn
là Thiên Chúa, đã trở nên một người trong chúng ta, ở giữa chúng ta, đã chịu khổ
hình, chết, được mai táng trong mồ, rồi phục sinh và Ngài muốn chúng ta cùng sống
lại với Ngài: “Đừng hoảng sợ! Các bà tìm
Chúa Giêsu Nadarét, Đấng bị đóng đinh chứ gì! Ngài đã trỗi dậy rồi, không còn
đây nữa. Chỗ đã đặt Ngài đây này! Xin các bà về nói với môn đệ Ngài và ông
Phêrô rằng Ngài sẽ đến Galilê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Ngài
như Ngài đã nói với các ông” (Mc 16:6). Thật là một tin vui cần phải công bố
cho toàn thể nhân loại. Hiến Chế Lumen Gentium, số 35 viết: “Như những bí tích của luật mới, là của ăn
nuôi dưỡng đời sống và hoạt động tông đồ của tín hữu, tiên báo trời mới và đất
mới thế nào (Kh 21,1), thì giáo hữu cũng mạnh mẽ loan báo lòng tin vào điều
mình trông đợi như thế (Dth 11,1), nếu họ không ngần ngại nối kết đời sống đức
tin với việc tuyên xưng đức tin làm một. Công cuộc rao giảng Tin Mừng đó, nghĩa
là sự loan báo Chúa Kitô bằng đời sống, chứng tá và lời nói, mang một sắc thái
và hiệu quả đặc biệt vì được thể hiện trong những hoàn cảnh chung của trần gian.”
Ngôn sứ Amos,
trong bài đọc thứ nhất, được sai đến với dân của ông: “Chính Chúa đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn vật, và Chúa đã truyền
cho tôi: Hãy đi tuyên sấm cho Israel dân Ta” (Am 7:15). Ra đi như vậy không
chỉ nói đến địa lý hay không gian nhưng trên hết là buông bỏ chính mình, buông
bỏ mọi thứ quan niệm, tiêu chí, tương quan vốn ràng buộc mình, kể cả tình cảm
tư riêng, gia đình, nghề nghiệp. Việc ra đi của các tín hữu ngày nay thường diễn
ra không đâu xa. Nó diễn ra trong gia đình, nơi hàng xóm, trong họ hàng, nơi
làm việc của chúng ta. Chúng ta được sai đi đến những môi trường đó. Có lẽ
chúng ta sẽ nói: họ không thèm nghe chúng tôi, chuyện đó không có tác dụng gì
đâu. Chúa Giêsu cho thấy ra đi không cần có gì bảo đảm, không cần những gì người
ta cứ tưởng là cần: “Không được mang gì
đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt
lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo” (Mc 6:8). Chúng ta trở
thành những ngôn sứ, có sứ mạng rao giảng Lời Chúa cho người khác bằng cách
minh chứng đức tin và đức ái trong lời nói, việc làm của mình bất cứ nơi đâu trong
đời sống thường ngày: “Các giáo hữu được ban
cho cảm thức đức tin và ơn dùng ngôn từ để sức mạnh Tin Mừng sáng ngời trong đời
sống thường ngày, trong gia đình và ngoài xã hội...Niềm hy vọng đó, họ không
nên giấu kín trong lòng, trái lại họ phải diễn tả nó qua những cơ cấu của cuộc
sống trần gian” (Hiến Chế Lumen Gentium, số 35).
3. Những chỉ dẫn cần thiết cho sứ vụ rao giảng Tin Mừng.
Chúa
Giêsu sai Nhóm Mười Hai ra đi trong ân sủng quyền năng: “Ngài ban cho các ông quyền trừ quỷ” (Mc 6:7). Các tông đồ được sai
đi trừ quỷ và thực tế quyền năng của Chúa Giêsu đã tác động trong sứ vụ của các
tông đồ: “Các ông trừ được nhiều quỷ”
(Mc 6:7). Hơn thế nữa, các ông “xức dầu
cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi
bệnh” (Mc 6:13). Bệnh tật, xét cho cùng, cũng là do ma quỷ gây ra. Nếu ma
quỷ không tiêm sự dữ vào con người thì sẽ không có bệnh tật. Thiên Chúa đã tạo
ra một thế giới tốt đẹp: “Thiên Chúa thấy
mọi sự Ngài đã làm ra quả là rất tốt đẹp!” (Stk 1:31), nhưng việc rời bỏ
Thiên Chúa, theo ma quỷ, mang đến đau khổ, “phải
cực nhọc thật nhiều” (Stk 3:16), “phải
cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi” (3:17), “phải đổ mồ hôi trán” (3:19). Người bệnh không phải là người nhiều tội
hơn người khỏe mạnh. Nhưng ma quỷ, nguồn gốc của mọi sự dữ, hả hê trong việc
chia cắt con người khỏi Thiên Chúa, là nguồn mọi sự thiện hảo, khiến họ trở nên
ngày càng xa cách Thiên Chúa, trong tội lỗi, bệnh hoạn và bị quỷ ám. Quyền năng
xua trừ quỷ dữ mà Chúa Giêsu ban cho các tông đồ chính là để chữa lành mọi sự
và tái lập mối liên kết của con người với Thiên Chúa. Đó chính là Ơn Cứu Độ.
Nhóm Mười Hai được “sai đi từng
hai người một” (Mc 6:7). Điều này có nghĩa gì? Theo sách Đệ nhị luật Do
Thái: “Một nhân chứng duy nhất không thể
đứng lên buộc tội một người về bất cứ một tội một lỗi nào; về bất cứ lỗi nào
người ấy phạm, phải căn cứ vào lời của hai nhân chứng hay căn cứ vào lời của ba
nhân chứng, sự việc mới được cứu xét” (19:15). Chúa Giêsu trả lời những người
Pharisêu: “Trong Lề Luật của các ông, có
chép rằng lời chứng của hai người là chứng thật” (Ga 8:17). Hơn nữa, hai người
có thể trông coi, hỗ trợ và khuyến khích lẫn nhau. Họ có trách nhiệm với nhau
và tránh được nhiều cám dỗ hơn. Ngoài ra, vì có hai người nên không ai nhận
thành quả là của riêng mình. Mọi thành quả đều nhờ bởi ơn Chúa: “Sine me non potestis facere – Không có Thầy,
anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5). Đó luôn luôn là ơn ban của Chúa Kitô
cho toàn thể Giáo Hội, mà sứ giả Tin Mừng chỉ là thành viên, là chi thể trong
Thân Mình Mầu Nhiệm của Chúa Kitô.
Khi đi truyền giáo, người môn đệ thực hiện lời dạy của Chúa Giêsu:
“Không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây
gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng” (Mc 6:8). Có
vẻ như người môn đệ đến tay không, nhưng thực ra họ mang đến một thứ quý giá
hơn nhiều: đó là Tin Mừng Cứu Độ. Nếu người ta đón nhận Tin Mừng ấy và vui vẻ
tiếp nhận người môn đệ thì một cộng đoàn những người tin Chúa sẽ dần dần được
sinh ra. Điều quan trọng là người môn đệ phải ở đó trong thời gian cần thiết, không
lo lắng về bất cứ điều gì khác ngoài việc “rao
giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối” (Mc 6:12). Tất nhiên, một số người
sẽ đóng cửa, không muốn bị làm phiền. Nhà truyền giáo không để điều này thành
gánh nặng cho tâm trí và cõi lòng mình, không tiếc nuối, phán xét hoặc lên án,
mà vẫn giữ được sự thanh thản, không mang theo bụi chân làm lấm bẩn con người khi
phải nhẹ nhàng bước tiếp cuộc hành trình.
Chúa Giêsu nhấn mạnh đến điều khác: “Được đi dép, nhưng không được mặc hai áo” (Mc 6:8). Khi bắt đầu cuộc
đời công khai của mình, Chúa Giêsu đã được Gioan Tẩy Giả tuyên bố không đáng cởi quai dép
cho Ngài. Khi “đóng đinh Ngài vào thập
giá” bọn lính “đem áo Ngài ra bắt
thăm mà chia nhau, xem ai được cái gì” (Mc 15:24). Có thể coi áo và dép ở
đây là biểu trưng cho toàn bộ cuộc đời của Chúa Giêsu. Các môn đệ đi truyền
giáo thực sự là những sứ giả của Ngài. Cuộc sống của họ trở nên như cuộc đời của
Chúa Giêsu - Alter Christus - và làm chứng cho toàn bộ con người và cuộc đời của
Chúa Giêsu, để “trong Chúa Kitô, một khi
đã tin, anh em được đóng ấn Thánh Thần, Đấng Thiên Chúa đã hứa. Thánh Thần là bảo
chứng phần gia nghiệp của chúng ta, chờ ngày dân riêng của Thiên Chúa được cứu
chuộc, để ngợi khen vinh quang Thiên Chúa” (Ep 1:13-14).
Phêrô Phạm Văn Trung.
Tác giả:
Phêrô Phạm Văn Trung
|