TÂM SỰ NGƯỜI CÔNG CHÍNH
Nadarét, chàng Giuse
thợ mộc
Đính
hôn cùng thôn nữ Maria.
Rõ
đẹp đôi, duyên thắm, tình mặn mà,
Hai
quả tim chung nhịp lòng yêu Chúa.
Dạ
canh cánh lời ngàn xưa đoan hứa:
Từ
một gia đình trong đám Tuyển dân
Sẽ
sinh ra Đấng Cứu độ gian trần,
Đôi
bạn trẻ thầm ước mình được chọn.
Và
này đây, đã đến thời làm trọn
Lời
tiên báo, Gáp-ri-en xuống trần,
Bay
vào tận Na-da-rét cô thôn,
Gặp
vị hôn thê vẫn còn trinh nữ.
“Chào
bà đầy ân sủng, lời thiên sứ.
Ơn
Trên nay đã khấng tuyển chọn bà
Làm
thân mẫu Con Thiên Chúa Ngôi Cha
Sinh
Thánh Tử nhờ Thánh Thần can thiệp”.
Trí
ngỡ ngàng, dạ khiêm nhu khôn xiết
Vẫn
“xin vâng” giữa ngàn sóng hân hoan.
Rồi
vội vã loan báo với phu quân,
Vừa
chia sẻ, vừa ngừa ngăn nghi hoặc.
Chàng
Giuse bỗng lâm vào trầm mặc:
“Không
xong rồi ! Thiên Chúa đã nhúng tay.
Ái
thê ta, Người giành hẳn từ đây,
Để
thực thi chương trình bao nhiệm lạ.
Sống
công chính, của ai thì phải trả :
Sao
còn dám chạm vật thánh Trời Cao ?
Con
Thiên Chúa, chẳng lẽ nhận vơ vào,
Để
thiên hạ tưởng lầm là quý tử ?
Chuyện
lạ này đem loan truyền tứ xứ
Nào
có ai mà tin nổi được chăng ?
Lấy
đâu ra cho tường tận chứng bằng
Điều
hi hữu, xưa rày chưa từng gặp ?
Thôi
mình cứ bỏ đi là thượng sách,
Dẫu
lòng đau vì tan vỡ cuộc tình !
Để
mặc Thiên Chúa, ta cứ làm thinh !
Tùy
ý Người ra tay và định liệu !”
“Này
Giuse, hãy nghe lời thánh triệu:
Đúng
là Tối Cao Thiên Tử hóa thân,
Maria
thụ thai bởi Thánh Thần,
Nhưng
ông hãy cứ rước về làm vợ.
Còn
thêm nhiệm vụ nữa, nào hãy nhớ:
Lầy
phụ quyền đặt tên trẻ sơ sinh,
Để
đưa nó vào dòng tộc của mình,
Hầu
ứng nghiệm lời Thánh Kinh tiên báo.
Cứ
để bàn dân thiên hạ kháo láo:
Vợ
con ông đấy, cho yên cửa nhà.
Bày
tỏ điều mầu nhiệm, chuyện còn xa !
Việc
trước mắt, hãy giữ gìn Gia thất.
Maria
son trẻ, cần dẫn dắt,
Ấu
Chúa phải được chăm sóc bảo toàn !
Hỏi
có bàn tay nào mạnh mẽ hơn ?
Này
Giuse, kíp tuân hành mệnh lệnh !”
Tháng 5-2024 Nhà Chung Tổng Giáo phận Huế.
Thắc mắc, xin mời đọc tiếp
TÂM SỰ NGƯỜI CÔNG
CHÍNH
(Mt 1,18-24)
(đọc trong lễ Thánh
Giuse ngày 19-03, vào ngày 18-12 mỗi năm
và vào Chúa nhật IV
Mùa Vọng năm A)
Văn bản Thánh Kinh
Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô: bà
Ma-ri-a, Mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về
chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Giu-se, chồng bà,
là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín
đáo. Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông
rằng: “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón Ma-ri-a vợ ông về, vì
người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai, và
ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi
tội lỗi của họ”. Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời Chúa đã
phán xưa qua miệng ngôn sứ : “Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con
trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là
Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa
dạy, và đón vợ về nhà.
Giải thích + Suy niệm
Nếu
ai đã từng xem cuốn phim “Đức Giê-su thành Na-da-rét” của đạo diễn Franco
Zeffirelli (sản xuất năm 1977) chắc còn nhớ phân cảnh Thánh Giu-se nằm mơ thấy
Đức Ma-ri-a bị ném đá chết vì tội ngoại tình. Nếu không thì cũng đã có lần được
xem một vở kịch diễn lại bài Tin Mừng hôm nay, trong đó có cảnh Thánh Giu-se
khắc khoải, lo âu, dằn vặt, thậm chí xấu hổ, trước sự kiện Đức Ma-ri-a mang
thai mà ông chẳng biết nguyên do. Đó là những tình tiết lâm ly, bi đát, đầy
kịch tính, làm khán thính giả bồi hồi xúc động, nhưng có nằm trong nhãn giới
của tác giả Tin Mừng chăng ? Ngoài ra, ý tưởng “tố giác” (ám chỉ Giu-se nghi
ngờ -mà nghi bậy- Ma-ri-a ngoại tình, hoang thai) nằm
bên cạnh ý tưởng “công chính” (một danh hiệu vinh quang, hiếm người được Kinh
Thánh trao tặng) đã khiến nhiều học giả phải lý luận vòng vo đủ cách, trưng dẫn
bản văn đủ kiểu để hòa hợp hai ý tưởng này. Tất cả những cái đó, theo các nhà
chú giải hiện đại, là do cách dịch chưa đúng về một vài từ ngữ trong văn bản.
1.
Khúc mắc tâm tư.
Mở đầu bản văn bằng câu “Đây là
gốc tích Đức Giê-su Ki-tô” và bằng chi tiết “Trước khi hai ông bà về
chung sống, Ma-ri-a đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần”, Mát-thêu đã
muốn chứng minh cho độc giả Do-thái của mình thấy làm sao Đấng Cứu Thế sinh ra
thiếu cha trần gian mà vẫn thuộc về dòng dõi Do-thái và con cháu Đa-vít được
(trong lúc Lc 1,26-38 thì chỉ trình bày mầu nhiệm cưu mang đồng trinh cho độc
giả lương dân hiểu). Việc lạ lùng này, chắc hẳn Đức Ma-ri-a đã tỏ lộ cho người
bạn đời yêu quý (bà chị họ Ê-li-sa-bét mà còn được biết nữa là, vì thiên thần
đâu có cấm Ma-ri-a tiết lộ : x. Lc 1,39-45). Với hai lý do : cho ông chia sẻ
niềm vui và vinh dự của bà là được chọn làm mẹ Con Đấng Tối Cao, hai là để
Giu-se khỏi suy nghĩ lung tung dông dài, nhất là rồi đây Ma-ri-a sẽ vắng nhà
nhiều tháng. Ngoài ra, việc Mát-thêu khẳng định đầy đủ sự kiện nhiệm mầu ấy
ngay từ đầu bài Tin Mừng (ông chẳng viết đơn giản : “Ma-ri-a đã có thai”)
hàm ý Giu-se đã biết rõ công chuyện. Thế nhưng việc tỏ lộ này đặt ông vào một
hoàn cảnh khó xử.
Theo nhiều nhà chú giải Công giáo hiện
đại, khi kết hôn với nhau, hai ông bà chắc dự tính sẽ có con với nhau một cách
bình thường (Cựu Ước luôn cho hôn nhân là tốt đẹp và con cái là hồng ân cao cả,
còn vô sinh vô hậu là tủi nhục lớn lao), đồng thời cầu mong con họ sẽ được
Thiên Chúa chọn làm Đấng Thiên Sai (Mê-si-a) như bao mộng ước của mọi gia đình
và mọi thiếu nữ Do-thái thời đó. Thế nhưng, đang lúc chưa chung sống như vợ
chồng, Ma-ri-a đã được sứ thần báo tin cho biết Thiên Chúa đã chọn bà làm mẹ
Đấng Thiên Sai, nhưng bà sẽ sinh con một cách nhiệm lạ -do quyền năng Chúa
Thánh Thần- vì thai nhi đó chính là Con Thiên Chúa ! Đây là điều mà Cựu
Ước cũng như hai ông bà không thể ngờ nổi.
Đứng trước mầu nhiệm cao cả này, Giu-se
đâm băn khoăn. Từ nay, Thiên Chúa đã can thiệp vào mối dây liên hệ của đôi bạn,
đã sử dụng Ma-ri-a như phương tiện để thực hiện kế hoạch lớn lao của Người. Từ
nay Ma-ri-a đã trở thành một vật thánh, thuộc quyền sở hữu của Đấng Tối Cao.
Giu-se tự nghĩ mình không có quyền động đến nàng nữa. Và dù không động đến
nhưng nếu tiếp tục chung sống trong một nhà, tới lúc con nàng sinh ra, chắc
thiên hạ sẽ nói là con của đôi bạn. Để cho ai nấy lầm tưởng như thế là một sự
bất công với Thiên Chúa, vì Hài nhi là con của Người mà. Công bố chuyện này cho
thiên hạ ư ? Ai mà tin nổi ! Có dấu chứng nào ? Vả lại Thiên Chúa đâu đã tỏ ý
định hãy loan truyền điều ấy cho bá tánh ! Thế là Giu-se dự tính ra đi, ra đi
âm thầm, để mặc Thiên Chúa đích thân giải quyết mọi chuyện. Ông xử sự như bao
người công chính trong Cựu Ước là run khiếp trước sự hiện diện của Đức Chúa và
không dám đoạt lấy một thành quả bởi tay Người. Vả lại, hiểu cách tự nhiên tức
thời, công chính, công bình -hay just, juste trong tiếng Anh tiếng Pháp- có
nghĩa là của ai thì trả cho người ấy, không vi phạm quyền lợi và sở hữu của tha
nhân. Chính cách dịch mới : “Giu-se là người công chính và không muốn
tiết lộ chuyện bà” hoàn toàn hỗ trợ cho lối giải thích vừa nói trên
đây. Từ Hy-lạp dùng ở đây là “deigmatisai”, tương đương với từ
“paradeigmatisai”. Nhưng trong lúc “paradeigmatisai” có nghĩa là “tố giác, bêu
nhục” thì “deigmatisai” lại chỉ có nghĩa là “tiết lộ, bày tỏ”, theo Giáo phụ
Origène, Giám mục Eusèbe de Césarée và Linh mục Paul Joüon, SJ, thành viên Viện
Kinh thánh Giáo hoàng, tác giả cuốn “L’Évangile de Notre-Seigneur
Jésus-Christ, traduction et commentaire du texte grec tenant compte du
substrat sémitique” (Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô, dịch và chú giải bản văn
Hy-lạp, có lưu ý tới ảnh hưởng của tiếng Xê-mít).
Lối giải thích cho rằng Giu-se công
chính chiếu luật (vâng lời Lề luật) là không ổn, vì chả có luật nào
buộc phải ly dị hôn thê mới bị coi như là ngoại tình cả (x. Đnl 22,13-21.23-27
chỉ liên hệ tới hôn nhân hoàn hợp, như Đnl 24,1 làm chứng). Đàng khác,
nếu âm thầm ly dị Ma-ri-a, thì Giu-se lại càng bất tuân Lề
luật, vì chứng thư ly dị chỉ có giá trị pháp lý khi mang tính cách chính thức
công khai (Đệ Nhị Luật có nói đến việc ly dị tổ chức ở cửa thành). Thành ra đây
là sự công chính tôn giáo, sự công chính đòi hỏi Giu-se tôn trọng
công trình Thiên Chúa nơi Ma-ri-a và cấm ông không được đoạt lấy công lao của
một hành động thần linh.
2.
Gỡ mối tơ vò.
“Ông đang toan tính như vậy, thì
kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông”. Thiên Chúa cuối cùng đã can thiệp
: “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng sợ [Hy ngữ: phobethes] đón Ma-ri-a vợ
ông về”. Đến đây, các nhà chú giải hiện nay đề nghị cách dịch khác cho từ
Hy-lạp gar mà xưa nay vẫn chỉ dịch là “vì” (“Vì người con bà
cưu mang…”) và cho từ Hy-lạp dé mà xưa nay vẫn chỉ dịch là
“và” (“và ông phải đặt tên…”). Từ “gar” còn có nghĩa : “vì vẫn biết, quả thật,
hẳn nhiên, phải rồi”, và thường gặp trong Tân Ước (x. Mt 18,7; 1Cr 9,19; 1Tx
2,20…) ; từ “dé” cũng còn có nghĩa “nhưng” : “Vì vẫn biết/hẳn nhiên
người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai,
nhưng ông phải đặt tên con trẻ”. Từ “vẫn biết/hẳn nhiên” nói lên một sự
thật mà Giu-se đã rõ (nên đây không có chuyện thiên thần mặc khải mầu nhiệm cưu
mang đồng trinh cho ông lúc này). Ma-ri-a sẽ sinh con, “nhưng” Giu-se sẽ đặt
tên cho con trẻ. Đặt tên (quyền của người cha theo pháp luật Do-thái) là thừa
nhận kẻ được đặt tên như con của mình. Rồi con đẻ hay con nuôi đều có giá trị
như nhau trước Do-thái pháp luật, nghĩa là con nuôi cũng hoàn toàn thuộc về
dòng dõi cha nuôi với mọi quyền lợi và nghĩa vụ y như con đẻ. Cách giải quyết
của Thiên Chúa thật tài tình : lợi dụng một điều khoản trong luật pháp Do-thái
(con nuôi # con đẻ, mà chắc Người đã từ lâu xui khiến cho có), Thiên Chúa hoàn
tất lời Thánh Kinh : Đấng Thiên Sai sẽ thuộc dòng dõi Đa-vít dù là con của một
trinh nữ, với Thiên Chúa là Cha.
Còn một lý do thực tế : cần phải tạm
thời che giấu mầu nhiệm Ngôi Hai nhập thể (khó chấp nhận khi chưa có ngôn hành
khẳng định của chính Đức Giê-su) bằng cách để thiên hạ lầm tưởng Giu-se là cha
đẻ của Người. Sự hiện diện của Thánh Giu-se trong ngôi nhà Na-da-rét còn cần
thiết để bảo vệ thanh danh Đức Trinh Nữ cũng như để chăm sóc nuôi dưỡng Ấu Chúa
và Mẹ Người.
Đến đây, ta có thể hiểu
rõ thêm nữa về sự công chính của Thánh Giu-se : đó là sự thức tỉnh nội tâm đối
với Thiên Chúa, một sự thức tỉnh vốn giúp ngài có khả năng đón nhận và hiểu rõ
sứ điệp, dẫn ngài tức khắc tới chỗ vâng phục. Dẫu cho đến nay ngài đã bối rối
trước các chọn lựa khác nhau của mình, giờ đây ngài biết đâu là đường lối hành
động đúng đắn. Là một người công chính, ngài vâng theo các mệnh lệnh Thiên Chúa
truyền dạy.
3.
Hiểu ra mầu nhiệm.
“Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để
ứng nghiệm lời xưa kia Chúa đã phán qua miệng ngôn sứ: ‘Này đây, Trinh Nữ sẽ
thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en,
nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta’. Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần
Chúa dạy, và đón vợ về nhà”. Vậy là bên cạnh Đức Ma-ri-a, bà
Ê-li-sa-bét, Thánh Giu-se nay cũng hiểu : vừa là con Thiên Chúa, vừa là con
loài người, Đức Giê-su đúng là Em-ma-nu-en thật (x.
Is 7,14). Ngay cả cho dù không thực sự
mang cái tên độc đáo này, Người vẫn là Em-ma-nu-en, như toàn bộ Tin Mừng sẽ cố
gắng minh chứng, là Thiên-Chúa-ở-cùng-nhân-loại trong chính bản thân
Người. Hai bản tính trong một ngôi vị này khiến Người có thể đền
tội xứng đáng, đầy đủ cho chúng ta và nhất là có thể thần hóa chúng ta, làm
chúng ta nên con Thiên Chúa, thông phần bản tính Người : “Con Thiên Chúa đã làm người để biến chúng ta
thành Thiên Chúa” (thánh Athanasiô), “Thiên Chúa đã
làm người, để biến chúng ta thành thần linh” (thánh Irênê). (Tương tự chúng ta
vì là vật chất và tinh thần nên có thể tinh thần hóa vật chất vậy).
Linh mục Phê-rô Phan Văn Lợi, Tổng Giáo
phận Huế.
Tác giả:
Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
|