Trần Mỹ Duyệt
Thánh Giuse là một vị thánh cao cả và vỹ đại nhất trong Giáo Hội
Công Giáo. Hình ảnh của ngài luôn gắn liền với hình ảnh Đức Trinh Nữ Maria và
Chúa Giêsu, Đấng cứu chuộc nhân loại. Tuy nhiên, sự cao cả và vỹ đại của Ngài
không được những tài liệu, sách báo do con người ghi chép, nhưng tiềm ẩn trong
Thánh Kinh Tân và Cựu Ước.
Theo những tài liệu mang tính cách truy tìm và tham khảo, Thánh
Giuse là người Do Thái thuộc thế kỷ I. Người mà theo Phúc Âm tường thuật, thuộc
hoàng tộc Vua Đavít, đã kết hôn với Đức Trinh Nữ Maria, ái nữ của Thánh Gioakim
thuộc chi tộc Judah, cũng thuộc dòng tộc Đavít, và Thánh Anna thuộc chi tộc
Levi. Tiến Sỹ Joshua Schachterle, giáo sự Kinh Thánh, trong bài viết tựa đề
“Mary and Joseph: Ages, Marriage, and Travel to Bethlehem” đã cho rằng,
Đức Maria kết hôn với Thánh Giuse ở giữa tuổi 14 và 19, trong khi đó
Thánh Giuse vào khoảng 20 tuổi. [1] Cũng theo Thánh Kinh, Thánh Giuse đồng thời
là nghĩa phụ - cha đồng trinh - của Chúa Giêsu. Ngài được tôn kính trong Giáo
Hội Công Giáo, Giáo Hội Chính Thống Đông Phương, Giáo Hội Chính Thống Oriental
(Hiệp thông với các giáo hội Kitô Giáo Đông Phương), Anglicanism (Kitô Giáo
truyền thống phát xuất từ Cuộc Cải Cách tại Anh thế kỷ 16), và Lutheranism
(Ngành Tin Lành chính, theo thần học của Martin Luther, thế kỷ 16).
Thánh Giuse sinh tại Bethlehem, năm 30 BC.
Qua đời năm 20 AD tại Nazareth. Hưởng dương 49 tuổi. [2]
Ngài là bổn mạng của các người cha, các công nhân thợ thuyền,
đặc biệt các người thợ mộc, che chở những người mẹ hiếm muộn, và các trẻ em
chưa sinh. Theo Thánh Têrêsa Avila, Thánh Giuse còn là đấng bầu cử cho những ai
trong cơn hấp hối được ơn chết lành. Do lòng yêu mến mà Ngài đã được qua đời
trong vòng tay của Đức Trinh Nữ Maria và Chúa Giêsu. Ngài còn là một vị rất
thần thánh trên Thiên Đàng, Thánh nữ đã xác tín rằng: “Không có điều gì tôi xin
với Thánh Giuse mà không được ban cho”.
Để biết rõ hơn về Thánh Giuse, thân thế cũng như vai trò của
Ngài, một cách đặc biệt trong nhà Nazareth, theo linh mục Michael Hall, chỉ có
thể được tìm thấy qua Tân và Cựu Ước.
Trước hết, Thánh Marcô nhắc đến Chúa Giêsu như là “con bác phó
mộc”, nhưng không nêu rõ tên của bác phó mộc là ai? Theo suy đoán, có lẽ vì
Thánh Ký muốn nói đến Chúa Giêsu như một người đã trưởng thành. Tuy nhiên, có
hai nơi đã nhắc rõ ràng Chúa Giêsu là con của Thánh Giuse. Đó là Phúc Âm Luca
3:23-38, và Phúc Âm Gioan 1:45.
Biến cố Giáng Sinh của Chúa Giêsu, Thánh Giuse đã được biết đến
ở hai trình thuật của Thánh Mátthêu và Luca. Riêng Phúc Âm Luca, những gì mà
Thánh ký ghi lại được cho là chính Đức Maria đã kể lại. Còn Thánh Mátthêu có ý
giới thiệu Thánh Giuse như là miêu duệ của Abraham và của Đavít dựa theo trong
Cựu Ước. Ở phần kết thúc về gia phả của Chúa Giêsu, thánh ký đã viết: “và
Giacóp cha của Giuse, chồng của bà Maria, người sinh ra Chúa Giêsu, Đấng được
gọi là Cứu Thế” (Mátthêu 1:16).
Hình ảnh của Thánh Giuse cũng thấy xuất hiện trong biến cố
Truyền Tin do Thánh Luca kể – Tổng Thần Gabriel nói với Đức Maria là bà sẽ làm
mẹ Con Thiên Chúa. Dầu vậy tên của Thánh Giuse đã được nhắc đến ở Tin Mừng của
Mátthêu: Khi mẹ Người là Maria đã đính hôn với Giuse, trước khi về cùng nhau,
bà đã thụ thai bởi Chúa Thánh Thần. Thánh Giuse định tâm ly dị bà, vì ông là
người công chính. Và Thiên Chúa đã can thiệp trong một giấc mơ, cho ông biết về
xuất xứ của bào thai. Nhờ biến cố này, qua việc Thánh Giuse đặt tên cho trẻ
Giêsu mà vai trò làm cha của ngài đối với Chúa Giêsu đã được Thánh Kinh ghi
nhận (x. Mt 1:18-21). Như vậy, Thánh Giuse đã làm trọn lời tiên tri khi đặt tên
cho Đấng Messiah, và cho Ngài một tình trạng hợp luật: con của Giuse thuộc dòng
tộc Đavít.
Trong gia đình Nazareth, theo Thánh Mátthêu, Thánh Giuse đã lo
lắng, bảo vệ gia đình của mình – và nó cho chúng ta một gương mẫu trọn hảo về
vai trò làm chồng cũng như làm cha – của những người đàn ông. Điển hình là khi
được thiên thần báo mộng, ngài đã đem gia đình mình trốn qua Ai Cập, và, khi
thời gian viên mãn, đem họ trở lại Nazareth, ở đó trẻ Giêsu đã lớn lên.
Thánh Luca mặc dù không nói gì về những giấc mơ của Thánh Giuse,
nhưng ông cũng kể một cách rõ ràng về cuộc sống của Thánh Gia. Ở hai chương đầu
của Phúc Âm, Luca đã đưa chúng ta đi qua những gì mà Kinh Mân Côi gọi là “Mầu
Nhiệm Vui”, trong đó, Maria được giới thiệu “đã đính hôn với một người tên là
Giuse, thuộc dòng họ Đavít”. Vâng nghe tiếng Thiên Chúa trong Phúc Âm của
Mátthêu, ngài cũng vâng giữ lề luật – cả tôn giáo lẫn dân sự. Khi lệnh truyền
kiểm tra dân số của hoàng đế đến, ngài đã đem vợ mình đang có thai về nơi sinh
trưởng – thành Bethlehem – để ghi danh.
Tiếp đến, trong chương 2, cả Thánh Giuse và Đức Maria đã vâng
giữ Torah – Luật Cựu Ước. Các ngài đi đền thờ Giêrusalem sau khi sinh Chúa
Giêsu, để “thanh tẩy”, và để dâng lễ vật được chỉ định cho những con trai đầu
lòng. Rồi hàng năm, theo luật, các ngài đã nhiều lần từ Nazareth lên Giêrusalem
dự Lễ Vượt Qua. Một trong những Lễ Vượt Qua ấy đã ghi lại ấn tượng đối với các
ngài, đó là năm trẻ Giêsu lên 12 tuổi sau lễ, đã tự ý tách mình khỏi cha mẹ để
đàm đạo với các bậc thầy luật sỹ trong đền thờ. Nhưng cũng chính do biến cố
này, một lần nữa, khi tìm thấy Ngài, Đức Maria đã xác nhận và làm rõ hơn vai
trò làm cha của Thánh Giuse: “Cha con và mẹ đã đau khổ tìm con”. Tuy nhiên,
Ngài đã trả lời bằng một câu nghe như đắng lòng đối với Thánh Giuse: “Ông bà
không biết rằng tôi phải ở lại trong nhà Cha tôi sao?” (Luca 2:49). [3]
Đối với Thánh Augustine, Thánh Giuse và Đức Maria biết Chúa
Giêsu là con của các ngài, nhưng các ngài phải nhận rằng Chúa Giêsu không phải
là người con một cách độc quyền của các ngài. Con của các ngài cũng là Con Đời
Đời của Thiên Chúa và vì vậy, cũng đã tạo dựng nên cha mẹ của mình. Chúa Giêsu
là con của các ngài trong thời gian, và các ngài cũng là cha mẹ của Ngài trong
thời gian.
Trong bài giảng 51, 30, Thánh Augustine tiếp tục giải thích:
Thánh Giuse là cha của Chúa Giêsu không phải do những việc làm của thân xác,
nhưng do những việc làm của tình yêu. Điều quan trọng nhất để trở thành một
người cha là tình yêu. Đó cũng là lý do con cái nhận ra người cha thật
của mình: không chỉ bằng tương quan thể lý, nhưng còn bằng tình yêu!
Thánh Giuse trở thành người cha của Chúa Giêsu ngoài sự kết hợp
của hành động vợ chồng, nhưng ngài vẫn ở trong gia phả của Chúa Giêsu, bởi vì
“sự cảo cả tinh tuyền của ngài, khẳng định chức làm cha của ngài”. Chức năng
làm cha của Thánh Giuse không chỉ do thể xác, nhưng do sự trinh khiết của ngài.
Ngài là “cha đồng trinh” của Chúa Giêsu. Khi Thánh Giuse lần đầu tiên nghe rằng
Maria mang thai, ngài đã phản ứng như mọi người đàn ông khác phản ứng. Ngài đã
bị chinh phục và tìm cách từ bỏ Maria một cách kín đáo. Nhưng trong giấc ngủ,
khi nghe thiên thần cắt nghĩa rằng bào thai trong lòng Maria là do phép Chúa
Thánh Thần, ngài đã với chủ ý trong sạch nhất đón nhận Maria làm vợ và Giêsu
làm con của mình.
Thánh Giuse là người chồng và là người cha đồng trinh. Việc làm
của Chúa Thánh Thần, theo Thánh Augustine, cũng đã bao trùm trên Giuse và Maria
vì cả hai đều công chính. Chúa Thánh Thần ngự trên sự công chính của cả hai và
ban cho họ người Con. Mặc dù Đức Maria sinh hạ, nhưng người con là thuộc cả
hai. Trên thực tế, thiên thần đã truyền cho cả hai phải đặt tên cho con trẻ, và
điều này đã ban quyền làm cha mẹ cho họ trên Giêsu. Vì thế, nếu quyền làm cha
của Thánh Giuse trên Chúa Giêsu bị từ chối, điều đó sẽ ngăn cản Đức Maria thay
thế chồng để nói: “Cha con và mẹ đã đau khổ tìm con” (Luca 2:48), khi tìm thấy
Chúa Giêsu trong đền thờ. [4]
Cha Michael Hall căn cứ vào trích đoạn Phúc Âm của Thánh Luca
thêm: Dĩ nhiên, Giêsu trở về Nazareth với ông bà và vâng lời cha mẹ là Maria và
Giuse, “Thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và
người ta” (Luca 2:5). Nhưng sự hiểu biết về nguồn gốc chính của Chúa Giêsu theo
Phúc Âm Thánh Gioan, ở đó từ “cha” được dùng trên 100 lần. Chỉ có 2 lần chỉ về
Giuse.
Khi viết về “gia phả” của Chúa Giêsu, bắt đầu với Giuse và tiếp
tục lui về “Seth, con Adam, con Thiên Chúa”, ở đó bao gồm Vua Đavít và Abraham,
Thánh Sử Luca xem như muốn giới thiệu vị trí của Chúa Giêsu như một con người
hoàn toàn. Ngài chia sẻ, qua Thánh Giuse, rằng căn tính mà chúng ta tất cả đều
có là con Thiên Chúa.
Đối với phần đông chúng ta, Giuse đã có một vị trí giữa các Tổ
Phụ Cựu Ước - Abraham, Isaac và Jacob. Chúng ta có thể quen với câu truyện của
ngài, nhưng có lẽ chúng ta không quen với sự thật là Giuse của Cựu Ước đã là
một mẫu hình đặc biệt giữa những người Do Thái ở thế kỷ đầu. Trong Sách Huấn Ca
viết vào ít thế kỷ trước khi Chúa Giáng Trần, đã đề cao ngài giữa những vị anh
hùng cao cả: “Trong số những người đã sinh ra trên đời, chẳng có ai sánh được
như ông Giuse: với anh em, ông là người lãnh đạo, với dân tộc, ông là người
nâng đỡ. Hài cốt của ông được quý trọng, được giữ gìn” (Huấn Ca 49:15). Và đó
cũng là hình ảnh của Thánh Giuse sau này trong Tân Ước.
Trong Tân Ước, 11 chương của Thư gửi người Do Thái đã viết về
đức tin và với những đặc tính của Cựu Ước, những người đứng vững với nhân đức.
Ở đó, Thánh Giuse cũng được nhắc đến. Nhưng một trong những trang Cựu Ước quan
trọng nhất được dùng để miêu tả câu truyện chúng ta đọc về Giuse là lời chúc
phúc mà Giacóp đã cho 12 người con, trước khi qua đời. Những lời của Cựu Ước
cũng mô phỏng những gì mà Giuse Tân Ước xứng đáng lãnh nhận:
Giu-se là cây sai quả, cây sai quả bên suối;
các cành nó vượt qua tường.
Những người bắn cung đã khiêu khích, đã bắn
tên và tấn công nó.
Nhưng cây cung của nó vẫn vững vàng, và những
cánh tay của nó vẫn lanh lẹ, nhờ tay Đấng Vạn Năng của Gia-cóp, nhờ danh Vị Mục
Tử, Tảng đá của Ít-ra-en.
Xin Thiên Chúa của cha con phù trợ con, Xin
Thiên Chúa toàn năng chúc phúc cho con! Phúc lành của trời ở trên cao, phúc
lành của vực thẳm ở phía dưới, phúc lành của nhũ hoa và tử cung!
Phúc lành của cha con trổi vượt, hơn cả phúc
lành của núi non vạn đại, và ước nguyện của gò nổng thiên thu. Ước chi những
phúc lành ấy xuống trên đầu Giu-se, trên đỉnh đầu người được thánh hiến giữa
anh em mình. (Sáng Thế Ký 9:22-26) [5]
Sau cùng Thánh Kinh không nói gì về ngày, và giờ cũng như cái
chết của Thánh Giuse, nhưng truyền thống tin rằng Thánh Giuse đã qua đời trước
khi Chúa Giêsu bắt đầu sứ mạng cứu chuộc của Ngài. Thánh nhân an nghỉ trong
vòng tay của Chúa Giêsu và Đức Maria. Ngài được cho là bổn mạng của những người
hấp hối mong ơn chết lành. Vì thế, khi chúng ta cầu cho mình, cho ông, bà, cha,
mẹ, vợ, chồng, con, cháu, con nuôi, con đỡ đầu, hoặc cho những ai xin chứng ta
cầu nguyện, cũng như chúng ta có bổn phận cầu nguyện cho họ, xin Thánh Giuse
giúp được ơn chết lành.
Và hằng ngày hãy sốt sắng cầu xin ngài:
Kính chào Đấng Gìn giữ Chúa Cứu Thế,
Bạn trăm năm của Đức Nữ Trinh Maria.
Chúa đã trao Con Một của Chúa cho ngài;
Mẹ Maria đã tin tưởng nơi ngài;
Chúa Kitô đã lớn lên cùng với ngài.
Lạy thánh Giuse diễm phúc,
xin cũng hãy tỏ ra ngài là cha của chúng con
và hướng dẫn chúng con đi trên đường đời.
Xin chuyển cầu cho chúng con ơn sủng, lòng thương xót, và can đảm,
Và xin bảo vệ chúng con khỏi mọi sự dữ. Amen. [6]
Lễ Kính Thánh Giuse, 19 tháng 3 năm 2024
TMD
______________
Tài liệu tham khảo:
1.https://www.google.com/search?client=firefox-b-1-d&q=how+old+when+Mary+gets+married+to+Joseph
2.St. Joseph. Wikipedia
3.https://www.godwhospeaks.uk/what-do-we-know-about-st-joseph/
4.http://isa.augustinians.net/attachments/article/292/St.%20
Joseph%20the%20foster%20father%20of%20Jesus(ENG).pdf
5.Bản dịch Kinh Thánh Trọn Bộ Cựu Ước và Tân Ước, 1998.
6.Tông Thư Patris Code, Năm Thánh Giuse từ 1
tháng 1, 2000 đến 8 tháng 12, 2021 của Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Năm Thánh kỷ
niệm 150 năm Giáo Hội Hoàn Vũ đã nhận Thánh Giuse là Bổn Mạng.