Vào thời Chúa Giêsu, không phải là không có ai chờ đợi Đấng Thiên Sai
- một vị cứu tinh,
mà vấn nạn đặt ra cho dân Do thái là Chúa Giêsu hóa ra chính là Đấng Mêsia
mà họ đang mong chờ, nhưng Ngài lại không giống như những gì dân chúng tưởng
nghĩ. Do đó, không những
họ không nhận ra Con Người ngay trước mặt họ
là Đấng Mêsia; mà họ còn chống đối, lên án và giết chết Ngài.
Tương tự như vậy - những cách nghĩ của chúng ta thời nay về Thiên Chúa
có thể là trở ngại của chính chúng ta trong việc nhận biết và gặp gỡ Thiên
Chúa. Chúng ta có thể bị mù quáng bởi những quan niệm sai lầm và thành kiến của
chính mình về Thiên Chúa và Chúa Giêsu. Khi xưa người ta không nhận ra Chúa
Giêsu và bây giờ chúng ta cũng không nhận ra Ngài. Đúng như Thánh Gioan Tẩy Giả
đã tuyên bố: “Có một vị đang ở giữa các
ông mà các ông không biết” (Ga 1:26).
Vì vậy, lời khuyên cho Chúa nhật đầu tiên trong năm phụng vụ mới của Giáo
hội là: “Anh em phải coi chừng, phải thức
tỉnh” (Mc 13: 33).
Việc Đấng Thiên Sai đến được nói đến trong Cựu Ước như một sự kiện vĩ đại,
gây chấn động, như trong bài đọc thứ nhất: “Ngài
xé trời mà ngự xuống, cho núi non rung chuyển trước Thánh Nhan, như lửa đốt củi
khô, như lửa làm cho nước sôi sùng sục! Ngài sẽ khiến cho thù địch Ngài nhận biết
Thánh Danh, chư dân sẽ run rẩy trước nhan Ngài, khi thấy Ngài làm những điều
kinh hồn táng đởm mà chúng con không ngờ” (Is 63: 19, 64: 1-2).
Nhưng hôm nay chúng ta lại có một hình ảnh khác về việc “chủ nhà đến”. Chúa
Giêsu nói “không biết khi nào thời ấy đến…
không biết khi nào chủ nhà đến: Lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng…
ông chủ đến bất thần” (Mc 13: 33, 35-36). Thiên Chúa, qua con người Chúa
Giêsu, đã đến với dân Do thái một cách bất ngờ, đầy ngạc nhiên mà không ai đã có
thể nghĩ tưởng tới trước đó: Thiên Chúa đã nhập thể, trở thành một người trong
chúng ta bằng xương bằng thịt, là “Emmanuel
- Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” Đó là điều chúng ta ngày nay mong chờ đặc biệt
trong mùa Vọng này, và cả cuộc đời mình.
Thử thách đối với chúng ta là phải tỉnh táo và thức tỉnh về mặt tâm linh
để nhận ra Ngài, đó là ý nghĩa thực sự của Mùa Vọng. Nhưng thật không may, đối
với không ít người Kitô hữu, Mùa Vọng chỉ là khoảng thời gian bốn tuần phụng vụ
trong nhà thờ, chuẩn bị trang trí những dây đèn nhấp nháy, hang đá, ngôi sao,
các món quà Giáng sinh. Tất cả những chuyện bên ngoài như thế, thay vì giúp cõi
lòng bên trong sốt sắng để “thức tỉnh” về mục đích của đời mình, mong chờ ngày
“Con Người quang lâm”, thì lại khiến tâm linh chúng ta “ngủ mê” như bài đọc thứ nhất mô tả: “lạc xa đường lối Thiên Chúa…làm cho lòng chúng con ra chai đá, chẳng
còn biết kính sợ Ngài…Không có ai cầu khẩn danh Chúa, cũng chẳng ai tỉnh dậy mà
níu lấy Ngài” (Is 63: 17, 64: 6).
Vì vậy – Chúng ta “phải coi chừng,
phải thức tỉnh” (Mc 13: 33). Nỗi lo lắng thực sự của chúng ta không gì khác
hơn là thức tỉnh, là tự hỏi liệu tôi có đang sống - và chết - trong cơn ngủ
quên, trong cái cảm giác mơ hồ mất phương hướng và lạc lối của một kiếp sống vô
thường không biết đi về đâu, mà kết cục chỉ là tiêu vong, hư không, vô lý, không
còn biết sự hiện hữu của mình hướng vọng về điều gì chắc chắn, qui hướng về Ai
vững bền.
Cha Anthony DeMello, một linh mục Dòng Tên nói: “Sống đạo có nghĩa là thức tỉnh. Hầu hết mọi người đều đang ngủ, mặc dù
họ không nhận ra điều đó. Họ sinh ra trong ngủ mê, họ sống trong ngủ mê, họ kết
hôn trong ngủ mê, họ sinh con trong ngủ mê, họ chết trong ngủ mê mà không hề thức
tỉnh. Họ không bao giờ hiểu được sự đáng yêu và vẻ đẹp của điều mà chúng ta gọi
là sự hiện hữu của con người” (Awareness – Tỉnh thức). Họ không bao giờ hiểu
được làm thế nào để sống cách trọn vẹn, bởi vì họ bị tiêu hao quá nhiều vào vô
vàn chuyện trần tục, những áp lực bận rộn của cuộc sống, đến mức cuộc sống của
họ không thể coi là sống thực sự. Họ sống theo những gì xảy ra chung quanh họ
hoặc những gì họ gây ra cho cuộc sống của mình. Họ sống và chết trong mê lầm
như tiên tri Isaia thú nhận: “Tất cả
chúng con đã trở nên như người nhiễm uế, mọi việc lành của chúng con khác nào
chiếc áo dơ. Tất cả chúng con héo tàn như lá úa, và tội ác chúng con đã phạm, tựa
cơn gió, cuốn chúng con đi” (Is 64: 5-6).
Cha Anthony De Mello kể:
· Một đệ tử là người Do Thái hỏi: “Con phải làm việc
lành nào để được Thượng Đế chấp nhận?” Minh Sư trả lời: “Làm sao thầy biết được.
Thánh Kinh nói rằng tổ phụ Abraham thực thi lòng hiếu khách và Thiên Chúa ở với
ông. Tiên tri Elia say mê việc cầu nguyện và Thiên Chúa ở với ông. Vua David
chăm lo việc trị nước và Thiên Chúa cũng ở với ông nữa.”
“Có
cách gì con có thể tìm ra việc mà Thượng Đế đã phân định cho riêng con không.”
“Có
chứ. Hãy tìm kiếm trong nội tâm con khuynh hướng sâu thẳm nhất, rồi nương theo
đó mà hành động.”
Nhưng nhiều người lao vào hành động, rồi rốt cuộc
chỉ để làm mọi việc tồi tệ hơn. Hành động của họ phát xuất từ những cảm xúc
tiêu cực ẩn kín trong thâm tâm, từ một mặc cảm tội lỗi, giận dữ, căm ghét; từ một
cảm xúc bất công hay bất cứ điều gì giống như thế. Hành động của những người vô
minh này chỉ thay thế sự bất công này bằng sự bất công khác, sự
giận dữ, căm ghét này bằng sự giận dữ, căm ghét khác. Và cứ như thế, tồi
tệ hơn, vì chúng không đến từ lòng yêu thương chữa lành.
Không phải là hành động của bạn mà là bản chất của bạn mới có giá trị.
Thật không may, chúng ta rất ít quan tâm đến việc thức tỉnh này. Cảnh giác, thức
tỉnh theo nghĩa Kinh thánh không phải là sống trong lo sợ về mọi thứ hiểm nguy
có thể xẩy đến, rồi lao vào đủ mọi thứ để cố quên đi nỗi khắc khoải về sự phi
lý của kiếp người, như Albert Camus, một nhà văn triết gia người Pháp, nhận thấy:
“Một người muốn kiếm tiền để được hạnh
phúc, và toàn bộ nỗ lực của cuộc đời người ấy đều được cống hiến cho việc kiếm
được số tiền đó. Hạnh phúc bị lãng quên; phương tiện thay thế cho mục đích cuối
cùng” (Albert Camus, Huyền thoại về Sisyphus và các tiểu luận khác). Cũng
trong tác phẩm này, Camus thấy con người mình “sẽ mãi mãi không thể xác định được. Giữa sự chắc chắn mà tôi có về sự
hiện hữu của mình và ý nghĩa mà tôi cố gắng gán cho sự hiện hữu chắc chắn đó,
khoảng cách sẽ không bao giờ được lấp đầy. Mãi mãi tôi vẫn là người xa lạ với
chính mình.”
“Thức tỉnh” là “phản tỉnh”, thoát ra khỏi tình trạng “vong thân”, để trở
nên đích thực là mình: nhận ra mình là ai, không còn thấy mình xa lạ với chính
mình, nhận thức con đường mình đang đi, đón nhận ánh sáng để biết đâu là chân
lý phải theo. Thức tỉnh là “đánh thức” mình dậy khỏi cơn mê ngủ “vô minh”. Đó
là thái độ khôn ngoan người tín hữu phải có khi sống ở trần gian.
Meister Eckhart, linh mục và nhà thần bí người Đức, nói: “Mọi người không nên lo lắng quá nhiều về những
gì họ làm mà thay vào đó là về những gì họ là. Nếu họ và cách sống của họ tốt
lành thì việc làm của họ sẽ rạng ngời. Nếu bạn là người công chính thì việc làm
của bạn cũng sẽ công chính. Chúng ta không nên nghĩ rằng sự thánh thiện dựa
trên những gì chúng ta làm mà đúng hơn là dựa trên con người chúng ta, vì không
phải việc làm của chúng ta thánh hóa chúng ta mà là chính chúng ta thánh hóa việc
làm của mình. Dù các việc làm của chúng ta có thánh thiện đến đâu, chúng cũng
không làm cho chúng ta nên thánh vì chúng chỉ là các việc làm, nhưng chính
chúng ta, càng thánh thiện và trở nên chính mình cách trọn vẹn, thì chúng ta
thánh hóa mọi việc làm của chúng ta, cho dù đó là những việc như ăn, ngủ, thức, hay bất cứ điều gì”
(Selected Writings).
Ngay cả việc tôi mang thức ăn cho người đói, mang nước cho người khát,
hay thăm kẻ tù rạc liệu có ích gì nếu tôi làm những việc đó chỉ để phô trương “cái tôi quy kỷ - egocentric.” Khi đó,
người đói khát và tù rạc chỉ là một phương tiện cho mục đích quảng cáo thương
hiệu “vị kỷ” của tôi; tôi vẫn chưa thức tỉnh, vẫn vô minh, vẫn ảo tưởng về giá
trị của việc “bác ái” của mình, mà lẽ ra các việc đó phải là cách giúp tôi “từ bỏ chính mình, xóa mình - self-denial”
để trở nên sẵn sàng chấp nhận mất mát, thiệt thòi vì yêu thương hết lòng, như
Chúa Giêsu: “Không có tình thương nào cao
cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga
15: 13). Thay vì “dốc đổ chính mình -
self-emptiness” tôi lại âm thầm tìm cách “làm đầy chính mình - self-fulfilment” bằng tiền bạc, của cải vật chất,
tiếng tăm, thú vui, theo chuẩn mực của “cõi người tham sân si”. Liệu lòng dạ tôi
đã có thể buông bỏ “cái tôi quy ngã” để trở nên chỉ còn là yêu thương chưa?
Chúa Giêsu không ngừng lên tiếng: “Đây là
điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”
(Ga 15: 12). Ngài chỉ ra con người thật của chúng ta: “Đối với anh em cũng vậy: khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm,
thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn
phận đấy thôi” (Lc 17: 10).
Thánh Phaolô tha thiết nói: “Giả
như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu
thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1 Cr 13:
3).
Thức tỉnh như thế quả là một thách đố quá khó khăn nếu chỉ nhắm vào sức
riêng của chúng ta. Yêu như Chúa yêu không phải là kết quả của năng lực riêng của
chúng ta. Tình yêu ấy phải được kín múc từ nguồn yêu thương không hề cạn là
Chúa Giêsu. Nếu Chúa Giêsu trao phó cho chúng ta sứ mệnh yêu thương như Ngài,
thì chính Ngài làm trổ sinh trong chúng ta những hoa trái của một tình yêu như
thế: “Chính Thầy đã tuyển chọn và cắt đặt
anh em để anh em ra đi và sinh nhiều hoa trái và để hoa trái của anh em tồn tại”
(Ga 15: 16). Chúng ta có thể loan báo tình yêu tột cùng này và làm chứng về
tình yêu ấy bằng chính đời sống của ta chỉ khi ta thức tỉnh về giới hạn của
mình, tin tưởng trở về với Đấng duy nhất có thể khơi nguồn tình yêu ấy trong
ta. “Tất cả những gì các con xin Chúa Cha
nhân danh Thầy, người sẽ ban cho các con” (Ga 16: 23).
Như vậy, để có thể “thức tỉnh”, con người cần “lắng nghe và làm theo” lời
Chúa dạy: “Chính Thầy là con đường, là sự
thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14: 6)
và kết quả của việc bước theo Chúa Giêsu là: “Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại
trong bóng tối” (Ga 12: 46). Đó là lời hứa của Chúa Giêsu: “Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối,
nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8: 12) một sự sống dồi
dào: “Phần tôi, tôi đến để cho chiên được
sống và sống dồi dào” (Ga 10:10).
Thức tỉnh là lấy lòng yêu thương và sự hòa hợp làm lẽ sống của chúng ta.
Đó là luôn có tâm tình biết ơn, trân quý mọi khoảnh khắc cuộc đời, tha thứ, xin
lỗi và vui mừng được sống trong vòng tay chắc chắn của Thiên Chúa mỗi ngày, trong
cộng đồng nhân loại – là liên tục sống mỗi
ngày trong ân sủng của Chúa Kitô, để Ngài đi vào cuộc sống mỗi ngày của chúng
ta. Điều chúng ta nên tự vấn là: tôi muốn sống và chết trong trạng thái tâm
linh nào. Tôi có thức tỉnh luôn mãi không? Nghĩa là tôi luôn có ánh sáng, sự thật
và sự sống của Thiên Chúa, là Chúa Giêsu, trong con người mình không? Hay tôi
đang trở nên lười biếng trong đời sống đức tin và có thể rơi vào tình cảnh ngủ
mê “ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em
đang ngủ” (Mc 13; 36).
Để đạt tới Sự Tỉnh Thức trọn vẹn, chúng ta cần khiêm hạ nài xin ơn trợ
giúp của Thiên Chúa như Thánh Phaolô đề cập trong bài đọc thứ hai: “Anh em không thiếu một ân huệ nào, trong lúc
mong đợi ngày Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mặc khải vinh quang của Ngài.
Chính Ngài sẽ làm cho anh em nên vững chắc đến cùng, nhờ thế không ai có thể
trách cứ được anh em trong Ngày của Chúa chúng ta là Chúa Giêsu Kitô” (1 Cr
7-8).
Phêrô Phạm Văn Trung.