TỪ KINH NHẬT MỘT “MAGNIFICAT” ĐẾN BÀI THƠ “LA VIERGE À MIDI”... VÀ...
1. Chuyện kể rằng, vào một ngày Thứ
Bảy, lễ Giáng Sinh
năm 1886.
Paul Claudel (1868-1955)... chẳng hiểu vì một
động cơ huyền nhiệm nào? Sau khi dự thánh lễ ban sáng, đến chiều, trở lại nhà thờ
Đức Bà Notre Dame Paris một lần nữa. Chàng nhớ rõ
ràng: “Hôm nay, Thứ Bảy, ngày cuối tuần, kính Đức Mẹ. Vẫn một thói quen, có buổi hát kinh
chiều trọng thể kính Đức Mẹ... Tôi vào nhà thờ, dừng lại nơi cột trụ có đặt tượng Đức Mẹ ẵm bồng Chúa Giêsu Hài Đồng, một tác phẩm điêu khắc tôn giáo có giá trị nghệ thuật từ thế kỷ XIV... Khi ca đoàn xướng kinh Magnificat, bỗng xảy ra một
biến cố phi thường... Trong giây lát, lòng tôi xúc động khôn tả. Đôi mắt tinh thần
của tôi mở ra và tôi đã tin. Ôi, những kẻ có
đức tin phúc đức là dường nào! Tất cả trở thành
sự thật: Thiên Chúa hiện hữu, Ngài đang có mặt nơi đây. Ngài là Đấng hằng
sống. Ngài hiện hữu thật sự, như chính tôi hiện hữu. Ngài yêu thương
tôi và kêu mời tôi đến với Ngài... Nước mắt tôi dàn
dụa và tôi bật khóc nức nở...” Vâng, cái khoảnh khắc
xuất thần và thánh thiêng ấy - theo lý giải và suy luận của các nhà tu
đức và nghiên cứu văn học - cứ mãi đánh thức, lung linh, gợi mở khôn
nguôi trong cuộc đời bề bộn trăm nỗi đa đoan của nhà ngoại giao, viện sĩ Viện Hàn
Lâm, nhà văn, nhà thơ lớn, đó là người tín
hữu Công giáo Pháp, Paul Claudel.(1) Chính xác hơn, là một ám ảnh, một ơn ban, một sáng soi của
Thánh Thần. Một bước ngoặt, một khúc rẽ ẩn
chứa sức mạnh đổi đời của chàng thanh niên đã trót sống buông thả đến độ vô
thánh vô thần. Như bậc quân vương David nhìn lại đời mình, sau giây phút yếu
đuối, mê hoặc, lỡ lầm. Như tiếng khóc
than chưa muộn mằn của Phêrô, khi chợt nghe tiếng gà canh ba giờ Tý, giữa đêm Chúa bị
trao nộp vào tay quân dữ. Như cú ngã ngựa tuyệt vời của Saolô đang cơn
say máu bách hại trên đường Damas. Như Nathanael giữa
đêm khuya, có phước được gặp Chúa. Và như đôi mắt hằn
sâu suối lệ của mẹ Monica kia, đã không ngừng giục giã Augustino trở về, để viết nên những
trang tự thuật Confessions bất hủ... Nơi chốn và giờ
khắc hạnh ngộ thần thiêng có một không hai ấy, có thể, còn là
cánh cửa mở ra bát ngát sau này, để những
Chateaubriand (1768-1848) mê mải dệt nên kiệt tác “Le Génie du Christianisme”; Lamartine (1790-1869) chìm vào “Méditations Poétiques”; Lacordaire (1802-1861) trải
nghiệm thế nào là “La Providence se lève avant le soleil”... Và cũng có thể, là ngôi giáo đường
quen thuộc ở thành phố Calcutta, hễ cứ vào lúc 3
giờ sáng sớm mỗi ngày, thi hào R.Tagore ngồi bất động, chìm sâu vào mặc
tưởng về “bản thể của Thiên Chúa.”(2). Để kín múc từ
nguồn linh hứng không bao giờ vơi cạn ấy, hồn thơ ông dâng
trào những ngôn từ na ná thứ ngôn từ mãnh liệt nồng nàn trong sách Khải Huyền. Đến nỗi, A.Gide đã phải đặt
bút viết câu này: “Tôi cảm thấy nhỏ bé, tầm thường trước Tagore, như chính Tagore
tầm thường, nhỏ bé lúc làm thơ bộc lộ tâm tư cùng
Chúa.”(3)
Như thế, có cường điệu và
cảm tính quá chăng, khi ta nói rằng con đường gần nhất để “đến với
đạo”, và “chở được đức tin - lòng đạo” là con đường của
thi ca? Như triết gia
Descartes hé mở trong tác phẩm giàu suy tưởng Cogitationes,privatae: “Người ta có thể ngạc nhiên khi những ý tưởng sâu sắc lại được tìm thấy
trong những tác phầm thi ca của các nhà thơ hơn là của các triết gia. Bởi vì nhà thơ vận dụng hết mọi nỗi niềm và khai thác tối đa khả năng tưởng
tượng để hình thành các ngôn từ, vần điệu. Như viên đá lửa trong chúng ta có những hạt giống của ánh sáng. Qua lý trí, triết gia chỉ khơi dậy chúng, trong khi nhà thơ làm cho chúng chiếu toả rạng ngời hơn, nhờ đặc ân tưởng tượng.”
2. Thật kỳ diệu.Không
hẹn mà nên.
Ở tít tắp những phương trời Đông Tây nào và với những
tâm thế, hoàn cảnh khác
biệt nhau hoàn toàn. Ấy thế mà, chẳng hiểu sao, những Paul
Claudel, Verlaine, Musset, Xuân Diệu, Hàn Mạc Tử, Hồ Dzếnh, Xuân Ly Băng và
những ai kia.... đã có chung một gặp gỡ, một nỗi niềm
khơi tả, một cảm xúc đức
tin,qua hình tượng tuyệt vời rất thánh của Đức Nữ Đồng Trinh Maria.
“La Vierge à Midi” được Paul Claudel viết vào những năm đầu của cuộc chiến
tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918). Qua đó, ông muốn thưa
lên cùng Đức Trinh Nữ Maria lời cảm tạ mà theo ông, chính Đức Mẹ đã
ra tay cứu vãn nước Pháp vượt qua trong cuộc chiến tranh tàn khốc này. Đây, ta lắng nghe, vẳng trong tiếng
chuông giữa trưa từ đỉnh tháp nhà thờ Đức Bà Paris, lời thơ:
“Il est midi. Je vois l’église ouverte. Il faut entrer....
Je ne rien pas prier... Je n’ai rien à offrir et rien à
demander.
Je viens seulement,pour vous regarder....”
Tạm dịch xuôi là “giữa trưa, thấy nhà thờ mở
cửa, con vào. Lạy Mẹ Chúa
Giêsu, con không đến để cầu nguyện. Con chẳng có gì để dâng và cũng chẳng xin Mẹ điều gì. Mẹ ôi, con đến chỉ để chiêm ngắm Mẹ thôi. Nhìn Mẹ, con khóc oà lên vì sung sướng. Và biết rằng con và Con của Mẹ, Mẹ của con đang
đứng đó...”
Buổi trưa”à midi” của Paul Claudel ở nhà thờ Đức Bà Paris năm ấy
và “giữa đáy trưa” của Xuân Diệu trong khổ thơ dưới đây, phải chăng là một
đồng cảm, đồng điệu của những người tri kỷ, tri âm? Không ai
dám chắc? Nhưng,có một sự thật, gần như hiển
nhiên, đó là một trong
những thói quen kinh kệ rất lành thánh của người Công giáo: đọc kinh “nhật một” lúc giữa trưa. Khi nghe chuông
nhà thờ ở đâu đó, từng giọt từng giọt gõ lên, là người ta tạm
ngừng mọi sinh hoạt, ai ở đâu ở nguyên đấy, để lặng thinh
nguyện cầu, thầm thĩ “Đức Chúa Trời
sai Thánh Thiên Thần Truyền Tin cho Rất Thánh Đức Bà Maria.” Ngạc nhiên chưa?
Đã bao lần, bản thân tôi được dịp chào thăm, làm quen khi giải
thích ý nghĩa cái thói quen cùng lời kinh “nhật một” ấy với nhiều
anh em không cùng một đức tin, ở trong những tình huống khác nhau. Tự nhiên, tôi chợt nhớ ra, bàng bạc ở đâu
trong âm nhạc tiền chiến, cũng có đấy tiếng chuông của Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Thiện Tơ, Lê Trọng Nguyễn
v.v. Rõ rệt hơn, ta tìm thấy
trong giai điệu và ngôn ngữ của Văn Cao đã khắc hoạ hình ảnh yên ả, thanh bình của
làng quê - xứ đạo Việt Nam:
“ Làng tôi xanh xanh bóng tre
Từng tiếng chuông ban chiều
Tiếng chuông nhà thờ rung...”
(Văn Cao. Làng Tôi,1947).
Dù không phải là tín đồ Công giáo, theo ghi chép của
người trong cuộc(5) thì nhân một lần viếng thăm linh địa Đức Mẹ Trà
Kiệu (Hội An, Quảng Nam), dưới chân đồi Bửu
Châu, nhìn ra xa phía
Cù lao Chàm, Xuân Diệu viết :
“Trưa hôm nay, con ngồi như trẻ nhỏ
Giữa đáy trưa, trong lòng Mẹ vô cùng
Con là sáo, Mẹ là ngàn vạn gió
Mẹ là trời, con là hạt sương rung.”(4)
Điều khiến cho vị linh mục quản xứ xúc động, là tại sao nhà
thơ đã chậm rãi để nắn nót và tô đậm tất cả những từ “MẸ” trong khổ thơ
trên.(5) Dẫu là Mẹ nào -
Mẹ trên trời hay Mẹ trần gian - tôi trộm nghĩ, thái độ cẩn trọng và nâng niu, trìu mến của “ông hoàng thơ tình” thật đáng nể phục.
Đến lượt Phan xi cô Hàn Mạc Tử (1912-1940), nhà thơ của Đức
Nữ Đồng Trinh Maria thì cái khoảnh khắc ấy lại là “những cơn lâm luỵ, rên siết, đớn đau”, là những “đêm Xuân cầu
nguyện”. Có vẻ như, Chúa và Đức Mẹ, lần đầu tiên bước
vào ngôi đền của thi ca hiện đại Việt Nam? Một hiện tượng, hay một phép mầu?
Mà nói cho rõ ngọn ngành thì như Hoài Thanh - là “Hàn Mạc Tử đã dựng riêng một ngôi đền thờ Chúa. Thiếu lòng tin, tôi chỉ là một du khách bỡ ngỡ, không thể quỳ lạy với thi nhân. Nhưng lòng tôi
có dửng dưng,trí tôi làm sao không ngợp, vì cái vẻ huy
hoàng, trang trọng, lung linh, huyền ảo của lâu đài kia... Có những câu thơ đẹp một cách lạ lùng, đọc lên như rưới vào hồn một nguồn sáng láng... Thơ Hàn Mạc Tử ra đời, điều ấy chứng tỏ
rằng đạo Thiên Chúa ở xứ này đã tạo ra một cái không khí có thể kết tinh lại
thành thơ...”(6)
“Maria,linh hồn tôi ớn lạnh
Run như run thần tử thấy long nhan
Run như run hơi thở chạm tơ vàng
Nhưng lòng vẫn thấm nhuần ơn trìu mến...
Đây rồi, đây rồi chuỗi ngọc vàng kinh
Thơ cầu nguyện là thơ quân tử ý
Trượng phu lời và tông đồ triết lý
Là nguồn trăng yêu mến Nữ Đồng Trinh”.
(Đêm Xuân Cầu
Nguyện. Xuân Như Ý).
Trong những ngày vật vã đớn đau cuối đời ở trại phong Ghềnh Ráng, Qui Hoà, Qui Nhơn - được
các nữ tu dòng Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ chăm sóc đặc biệt - Hàn Mạc Tử đã thổ
lộ: “Tôi chỉ biết ngâm thơ và cầu nguyện mà thôi.”
Đây, ta nghe tiếng
kêu của chàng với Đức Mẹ:
“Lạy Bà là Đấng tinh tuyền thanh vẹn
Giàu nhân đức,giàu muôn hộc từ bi.”
Chẳng thế mà Vũ Ngọc Phan, trong Nhà Văn Hiện Đại, đã kết luận: “Hàn Mạc Tử có lẽ là người Việt Nam đầu tiên làm thơ ca ngợi Thánh Nữ Đồng
Trinh Maria và Chúa Giêsu. Ông ca tụng đạo
Thiên Chúa với một giọng rất chân thành. Đây là lần đầu
tiên thi ca Việt Nam thấy được một nguồn cảm hứng mới. Tôi dám chắc rồi đây sẽ còn nhiều thi sĩ Việt Nam đi tìm nguồn cảm hứng
trong đạo giáo và đưa thi ca Việt Nam vào con đường triết học.”
3. Và dự báo ấy, chẳng cần phải đợi
chờ lâu hơn nữa. Lại một tiếp nối, không ngừng nghỉ. Muôn ngã rẽ lại
hợp lưu,thành một dòng chảy văn học ngợi ca Đức Mẹ Đồng Trinh Maria. Chúng tôi muốn
nói đến trường hợp của những Hồ Dzếnh, Xuân Ly Băng và
Cao Vĩnh Phan... và....
Cả Võ Long Tê , Phạm Đình Khiêm và Nguyễn Khắc Xuyên đều có chung một quan điểm, khi nhận định về
hành trình đức tin của nhà thơ mang hai dòng máu Việt Hoa, Hồ Dzếnh: “Bằng trực
giác, bằng diệu cảm, bằng thơ, Hồ Dzếnh đã đi đến cùng một kết luận với
những công trình suy lý, luận giải minh triết nhất của những
Augustin, Thomas d’Aquin, với cả Pascal, Jean Guiton...”
“Mẹ đẹp vô ngần, Mẹ trắng phau
Gấp nghìn hoa huệ, vạn bồ câu
Và nhan sắc Mẹ không là gấm
Nhưng dệt bằng hương rất nhiệm mầu”(7)
...Và cách nay chưa xa...
Vào một ngày cuối Tháng 5 Dâng hoa kính Đức Mẹ, năm 2007.
Đã là một thói quen, tôi đến thăm các linh mục già yếu tại nhà hưu
dưỡng, nằm sau nhà thờ
của họ đạo Chí Hoà. Câu chuyện về Đức Mẹ qua bài thơ “La Vierge à midi” và thi ca Công giáo lại có dịp bùng nổ, thú vị không ngờ. Hoá ra, Paul Claudel và
phút cảm xúc tôn giáo dạt dào của ông qua bài thơ La Vierge à midi hình như đã
nằm sẵn trong ký ức của bao nhiêu thế hệ trí thức Việt Nam. Trước hết, là
chùm thơ Đường luật rất kinh điển của cha Tô ma Trần Văn Dụ. Đọc to cho ai nấy
nghe,dường như chưa đủ. Ngài kể chuyện nhàn đàm về thơ vịnh Đức Mẹ Đồng
Trinh với linh mục - nhà thơ Giuse Nguyễn Văn Thích, bút hiệu Sảng
Đình (1891-1978); với
linh mục nhạc sĩ Phê rô Hoàng Diệp (1924-2008). Tiếp đến là cha
GBT.Cao Vĩnh Phan(8) lấy trong túi ra một tập thơ mỏng tanh, có cái tên khá
ngộ nghĩnh là “Bắc Thang Lên Mẹ”, đọc liền một
hơi, khiến ai nấy đều
ngẩn ngơ. Chả là, nhà hưu dưỡng này, có một thời gian
dài, đã trở thành một
điểm hẹn ấm áp của nhiều thi hữu trong nhóm thơ Bạch Đàn, cùng bạn bè gần
xa.(9) Cha con chúng tôi nói đùa ,đây là “Tao đàn Công giáo”, mô phỏng sinh hoạt nhóm Phi Năng Thi Tập của
Thánh Philipphe Phan Văn Minh (1815-1853) ở miệt đồng bằng sông Cửu Long.
“Con nhớ một lần,đứng ngắm trăng
Giữa vườn hoa đẹp ,rộng thênh thang
Bỗng đâu con nhớ lời thơ nọ
Diễn tả dung nhan của Mẹ rằng:
“Mẹ đẹp vô ngần,Mẹ trắng phau
Gấp nghìn hoa huệ,vạn bồ câu
Và nhan sắc Mẹ không là gấm
Nhưng dệt bằng hương rất nhiệm mầu.”
Không biết lời thơ đó của ai?
Trích ở bài thơ viết ngắn, dài
Học từ tấm bé, nay không nhớ
Phải phục nhà thơ có biệt tài
Chắc Mẹ đang còn giữ bài thơ
Mẹ ráng tìm xem giọt lệ mờ
Của nhà thi sĩ rơi trong đó
Mẹ nói con hay, khỏi đợi chờ
..............
Mẹ đẹp vô ngần, Mẹ trắng phau
Đầy dư phúc lộc,ngự trời cao
Mẹ đang chiêm ngưỡng dung nhan Chúa
Xin Mẹ nguyện cầu con gắng theo
Thi sĩ cùng con dâng Mẹ đây
Mấy lời xướng hoạ cả thơ này
Làm như của lễ, mừng năm thánh
Chắc Mẹ vui lòng chấp nhận ngay?”
Khởi đi từ lời kinh ngợi khen Magnificat của Đức Trinh Nữ Maria, Paul Claudel đã
mở ra một dòng chảy thi ca bát ngát,từ Hàn Mạc Tử, Xuân Diệu, Hồ Dzếnh, Xuân Ly Băng, Cao Vĩnh Phan
và...hiện trong tay chúng tôi đang lưu giữ một số bản dịch Việt ngữ khác. Tiếc thay, khuôn khổ một
bài báo không cho phép giới thiệu nhiều hơn. Ở đây, để tạm khép lại
bài viết này, xin ghi nhận thêm một trích đoạn từ bản dịch khá mượt mà
của nhà thơ Xuân Ly Băng.
“Trời đúng ngọ,cửa giáo đường rộng mở
Lạy Mẹ Chúa Ki-tô, con phải vào
Con vào đây, không phải để kêu cầu
Con chẳng có lễ phẩm chi dâng Mẹ
Chẳng vòi vĩnh chi, chẳng đòi ân huệ
Con vào đây, chiêm ngưỡng Mẹ mà thôi
Mẹ ôi, trong ánh trời chiều
Đến đây với Mẹ yêu kiều lòng con
Chẳng dâng gì, chẳng van lơn
Chỉ nhìn ngắm Mẹ, tâm hồn sướng vui...”
(Trong Thinh Lặng
- Hương Kinh, 1957, tr.33)
Chú Thích:
(1) Nói đến Paul
Claudel là nói đến một nhà văn,một nhà thơ lừng lẫy của văn học Pháp. Sự nghiệp văn học
của ông vừa đồ sộ, vừa mang đậm xác tín Ki tô giáo. Đặc biệt có nhiều
ảnh hưởng đối với giới trí thức Công giáo Việt Nam. Xin lược kể vài
tác phẩm tiêu biểu: Cinq Grands Odes (1910); La Cantate à
trois voix (1931); Poèmes De La Sexagesime (1905); Poèmes De Guerre (1914)...
(2);(3): Xin tham khảo “Ở Thượng Nguồn Thi Ca Công giáo Việt Nam -Miền
Thơ Kinh Cầu Nguyện” của Lê Đình Bảng, nxb Phương Đông, 2009.
(4) Các tập thơ: Thơ
Thơ; Gửi Hương Cho Gió... Xuân Diệu là thành viên của Tự Lực Văn Đoàn (1938-1940) cùng
với Nhất Linh ,Khái Hưng ,Hoàng Đạo, Thạch Lam, Thế Lữ, Tú Mỡ...
(5) Cố linh mục An
Tôn Nguyễn Trường Thăng (1942-2018), quản xứ Đức Mẹ
Trà Kiệu, Hội An (1975-1989); du học Pháp; nhà nghiên cứu
văn hoá, đặc biệt về lịch
sử chữ Quốc ngữ và bảo tồn văn hoá Chăm.
(6) Thi Nhân Việt
Nam. Hoài Thanh và
Hoài Chân. Nxb Văn Học, Hà Nội, 1998.
(7) Võ Long Tê (1927-2017): nhà nghiên cứu
Công giáo: Lịch Sử Văn Học Công giáo Việt Nam, nxb Tư Duy, 1965; Symphonie
Orientale (1976); L’Ordre divin(2017)... Phạm Đình Khiêm (1920-2013): Chủ biên báo
Thanh Niên (Nam Định, 1943), Văn Đàn (Sài gòn, 1967); Minh Đức Vương
Thái Phi (1959), Người Chúng Thứ
Nhất (1959)... Nguyễn Khắc
Xuyên (1923-2005): Nhạc sĩ thánh ca
thuộc nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh; nhà nghiên cứu lịch sử, văn hoá, chữ Quốc ngữ;
Giáo sư đại chủng viện Xuân Bích Sài gòn, Huế và Đại học
Đà Lạt. Hồ Dzếnh (1916-1991): nhà
văn, nhà thơ: Chân Trời Cũ (1942), Quê Ngoại (1943).
(8) Linh mục JBT.
Cao Vĩnh Phan (1924-2011): Trường Ca Dân Chúa; Trường Ca Tuyệt Diệu; Lịch
Sử Giáo phận Vinh; Đức Ông - nhà thơ GB.Xuân Ly Băng (1926-2017):
Hương Kinh, Thơ Kinh (1956-1958)... Xuân Ly Băng
Toàn Tập (2013).
(9) Ở nhà hưu dưỡng
linh mục này, trong thời gian từ 1990 đến 2009, chúng tôi được gặp gỡ và hầu
chuyện một số “người gác cửa quá khứ”, như: học giả
Hoàng Xuân Việt, nhà nghiên cứu Hán Nôm Vũ Văn Kính và quý cha: Louis Trần Phúc
Vỵ, Giuse Đinh Cao
Thuấn, Vinh sơn Nguyễn
Hưng, Phao lô Lê Tấn
Thành, Tôma Linh phong
Trần Văn Dụ ....
Tác giả:
Francis Assisi Lê Đình Bảng
|