“Của Xêda hãy trả
cho Xêda. Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa” (Mt 22,21). Con người là hữu
thể có tính xã hội. Có thể nói rằng tính xã hội là một trong những yếu tố nền
tảng làm nên con người. Quyền bính có ra là do yêu cầu của tính xã hội. Đã là
hai người thì tất yếu có kẻ trên, người dưới. Đã là tập thể thì phải có người
đứng đầu để lãnh đạo. Một tập thể mà không có người chỉ huy thì chuyện tan rã
là chuyện không sớm thì muộn cũng xảy ra. Không có người lãnh đạo thì sẽ dẫn
đến tình trạng hỗn độn, cá lớn nuốt cá bé. Chính vì thế sự hiện hữu của quyền
bính là điều tất yếu cần thiết. Vị trí quan trọng và thiết yếu của quyền bính
được nhìn nhận do bởi vai trò của nó. Quyền bính có ra là để gìn giữ xã hội ổn
định trong trật tự, công bằng; xây dựng công ích; bảo vệ kẻ cô thân, yếu thế,
người bất hạnh; tạo điều kiện cho mỗi người và mọi người hoàn cảnh thuận lợi để
tồn tại, phát triển và nên hoàn thiện.
Theo viễn kiến này và
dưới ánh sáng đức tin, chúng ta nhìn nhận rằng Thiên Chúa muốn có sự hiện hữu
của quyền bính trong xã hội dân sự. Và sự hiện hữu của quyền bính là trong
chương trình sáng tạo của Thiên Chúa, khi Người dựng nên nhân loại có tính xã
hội. Như thế chúng ta có thể nói không sợ sai lầm rằng quyền bính là một trong
những công trình của Thiên Chúa, nghĩa là do Thiên Chúa làm nên.
Những gì của Thiên Chúa
thì hãy trả cho Thiên Chúa. Xêda là một hình thức quyền bính của xã hội dân sự
thời phong kiến xưa. Xêda là hoàng đế của La mã hoặc bất cứ vị hoàng đế của
nước nào cũng đều thuộc về Thiên Chúa. Ngày nay, Tổng thống, Thủ tướng, Bộ
trưởng, Quốc Hội, Tòa án…cũng là quyền bính xã hội và chúng đều thuộc về Thiên
Chúa. Vì thuộc về Thiên Chúa thì những người nắm giữ quyền bính ấy phải hành
động theo thánh ý Thiên Chúa. Hoàng đế Kyrô khi ra sắc chỉ cho dân Do Thái bị
lưu đày trước đây được hồi hương và tái thiết Đền thờ thì đã được ngôn sứ Isaia
nhìn nhận như là người được Thiên Chúa tuyển chọn. Hoàng đế Kyrô còn được gọi
là người được xức dầu vì ông đã thực thi thánh ý Thiên Chúa (x.Is 45,1).
Chúng ta cần phân biệt
sự hiện hữu của quyền bính với người nắm quyền bính. Sự hiện hữu của quyền bính
là chính đáng, hợp pháp và phải đạo vì do Thiên Chúa làm nên. Tuy nhiên không
phải bất cứ ai nắm quyền bính cũng đều chính đáng, vì có thể họ chiếm lấy quyền
bính cách không hợp pháp hoặc họ thực thi quyền bính cách không phải đạo. Lich
sử minh chứng có trường hợp người ta đã chiếm lấy quyền bính cách “ma đạo” và
hành quyền kiểu độc tài, phi nhân và phi luân. Như thế chúng ta cần phải phân
biệt rạch ròi thực thể quyền bính với những người nắm quyền để khỏi nhầm lẫn.
Xét quyền bính như là
một cơ cấu tổ chức điều hành một tập thể xã hội hay tôn giáo thì nó thật chính
đáng và hợp lý. Tuy nhiên hình thức quyền bính này cũng cần phải được chỉnh sửa
cho phù hợp với sự phát triển của con người và xã hội để phục vụ cách hữu hiệu
ngày mỗi hơn. Chẳng hạn như cơ cấu quyền bính loại hình quân chủ chuyên chế
không thể nào thích hợp với con người và xã hội hôm nay. Nhiều hình thái cơ
cấu, tổ chức không chỉ cần phải được đổi mới mà thậm chí còn phải bị thay
thế bằng hình thái khác. Có thể nói rằng với đà phát triển của nhân
loại như hôm nay thì những hình thái quyền bính mang tính độc tài, chuyên chế
không còn lý do để hiện hữu.
Xét những con người nắm
quyền bính thì trước hết chúng ta cần xem xét cách thức họ nắm giữ quyền hành
có hợp pháp không, nghĩa là có minh bạch và công bằng không. Chúng ta dễ nhận
ra cách thức xem ra được gọi là khá công bằng hiện nay để xây dựng công quyền
đó là “phổ thông đầu phiếu”. Và dù được tổ chức bầu bán công khai thì cũng cần
phải xét xem việc bầu bán ấy có tiến hành trong sự tự do và công bằng hay
không. Thực tế đã có đó những cuộc bầu bán tuy là công khai những chỉ là một
thứ hình thức hợp pháp hóa sự độc quyền, vì chưa bầu mà thiên hạ đã biết những
ai sẽ đắc cử và sẽ đảm nhận vai vế gì trong hệ thống công quyền.
Kế đến chúng ta cần xem
xét những người cho dù đảm nhận quyền bính cách hợp pháp và công minh nhưng họ
có hành quyền cách công tâm và đúng mực không, dĩ nhiên là ở một mức độ nào đó
khả dĩ có thể chấp nhận. Nếu đang nắm quyền mà không thực thi vai trò của quyền
bính như đã nói trên, đó là xây dựng công ích, gìn giữ trật tự, bảo vệ người cô
thế…, thì chắc chắn những người ấy đang đi ngoài đường lối của Thiên Chúa. Như
thế họ không chỉ không đáng được tôn trọng mà thậm chí còn cần phải bị thay
thế.
Giáo Hội không làm thay
việc của Chính quyền. Đây là một lời khẳng định đúng. Thế nhưng cần hiểu hai từ
Giáo Hội ở đây xét như là một thực thể tôn giáo mang tính xã hội có cơ cấu tổ
chức và cả quyền bính. Còn những con người có tôn giáo thì chắc chắn phải thực
thi nghĩa vụ “con người mang tính xã hội” của mình. Họ phải tích cực tham gia
và xây dựng quyền bính xã hội để làm cho nó ngày càng thuộc về Thiên Chúa hơn,
nghĩa là được vận hành cách chính đáng và phải đạo. Giáo hội Công giáo chỉ cấm
hàng giáo sĩ và tu sĩ không được tham gia vào các chức vụ công quyền, trừ khi
có lý do thật khẩn thiết và được ban phép (GL Đ.287.2; Đ.672). Còn với tín hữu
giáo dân thì việc trực tiếp hay gián tiếp tham gia công quyền và xây dựng công
quyền ngày càng trở thành “chính quyền” là một nghĩa vụ khẩn thiết, không thể
xao nhãng hay bỏ qua vì bất cứ lý do gì.
“Của Thiên Chúa hãy trả
cho Thiên Chúa”. Có thể khẳng định rằng thể chế nào, nền công quyền nào hay
người nắm quyền lực nào mà không “thuộc về Thiên Chúa” thì đang bị Thần dữ chi
phối. Thần dữ vốn là tên sát nhân và là cha của sự gian dối thì “thành quả” của
nó chính là sự chết chóc, bạo lực và hận thù (x.Ga 8,44). Chính vì thế để làm
phát triển nền văn minh tình thương và sự sống thì mọi Kitô, dù là giáo dân, tu
sĩ hay giáo sĩ, theo cách thế của mình, đều có bổn phận làm cho các cơ chế công
quyền và những người nắm quyền “thuộc về Thiên Chúa”, nghĩa là hiện hữu, vận
hành và thi hành quyền bính phù hợp với thánh ý Thiên Chúa. Để được vậy, thiết
nghĩ không gì hơn chúng ta cần tích cực can đảm bảo vệ công lý và làm chứng cho
sự thật trong tình yêu. “Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội Công Giáo” đã từng được
Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam lên chương trình
phổ biến và học tập. Mong sao chương trình này không dừng lại ở phạm trù truyền
đạt kiến thức nhưng thiết nghĩ cần phải được hiện thực hóa bằng việc làm cụ
thể, rõ ràng.
Lm. Giuse Nguyễn Văn
Nghĩa – Ban Mê Thuột