Chuyên mục
“Huế - Sàigòn – Hànội”:
Tiến sĩ Trần Mỹ Duyệt
Kính
mời theo dõi video tại đây:
https://bit.ly/3NPNxeA
Nếu có một ngày, người con của bạn nói với bạn: “Con không muốn cưới
vợ, hoặc con không muốn lấy chồng. Nhưng con muốn sống với người bạn trai hay
người bạn gái của con.” Chắc chắn khi nghe như vậy, bạn sẽ rất sửng sốt, khủng hoảng,
và thất vọng! Nhưng đây không phải là phản ứng của riêng bạn mà là của phần
đông những cha mẹ, phụ huynh khi biết mình có một người con thuộc thành phần
đồng tính.
NHỮNG NGƯỜI ĐỒNG TÍNH LÀ AI?
LGBTQ là
chữ viết tắt tổng hợp của Lesbian (đồng tính nữ), Gay (đồng tính nam), Bisexual (lưỡng tính), Transgender (đổi giống), and Queer/Questioning (kỳ dị/nghi ngờ).

Đây là những người tự cảm thấy bên trong mình ẩn hiện một phái
tính khác của mình. Thí dụ, bên ngoài là một cậu trai hay một cô gái, nhưng trong người cậu
trai ấy là một cô gái, hoặc ngược lại. Và trong cách sống, những người này thường thể hiện qua những
cảm tình, như hành động, nói năng, áo quần. Tiếng chuyên môn gọi là Gender identity.
Họ thu hút hay là đối tượng sự thu hút lãng mạn hoặc cảm
nhận về tính dục đối với người khác (Sexual attraction).
Tự đánh giá về căn tính của phái tính (Sexual identity). Thí dụ,
đồng tính nam, đồng tính nữ, hoặc lưỡng tính.
Và trong quan hệ tình dục (Sexual behavior), họ muốn chia sẻ với
những người mà họ cho là cùng phái tính.

Những đặc tính trên có thể bao gồm trong một người, nhưng phần đông lại che giấu, vì sợ rằng
công khai hành động phái tính sẽ dẫn đến việc kỳ thị hoặc coi thường.
Trong một khảo cứu gần đây có 11% những người Mỹ trưởng thành ít
nhất đã có lần cảm thấy hấp dẫn bởi một người cùng giới tính. 8,2% cho biết đã
liên hệ với người cùng phái, nhưng chỉ có 3,5% chấp nhận mình là đồng tính nam,
đồng tính nữ, hoặc lưỡng tính. [How Many People are Lesbian, Gay, Bisexual,
and... https://williamsinstitute.law.ucla.edu › Publications]

NGUYÊN NHÂN TÌNH TRẠNG PHÁI TÍNH
Tuy không do lựa chọn, nhưng trạng thái phái tính của một người có thể thay
đổi trong suốt cuộc sống. Nhiều người biết mình là đồng tính ngay trước khi dậy thì. Trong
những trường hợp này tâm lý trị liệu, chữa trị, hoặc khuyên ngăn không thay đổi được
căn tính phái tính của một người.
Giảng sư Christopher C. H. Cook, Giám Đốc the Centre for
Spirituality, Theology & Health tại Durham University, năm 2021, qua cuộc
khảo cứu mang tên “What causes sexual orientation? – Nguyên nhân gây ra xu
hứơng tình dục” [Full article: The causes of human sexual orientation -
Taylor... https://www.tandfonline.com ] đã phân tích một số
những lý do đưa đến tình trạng đồng tính, gồm:
Genetics (Di truyền):
Đặc biệt nhấn mạnh đến yếu tố song sinh. Nhưng song sinh được
phân ra thành 2 loại là: Identical, or monozygotic (MZ): Non-identical, or dizygotic (DZ).
Identical, or monozygotic (MZ): Sinh đôi cùng trứng,
giống hệt nhau còn được gọi là đơn hợp tử. Các cặp song sinh này chia sẻ
100% genes, giới tính, màu mắt, nhóm máu v.v.
Non-identical, or dizygotic (DZ): Sinh đôi khác trứng
hay sinh đôi hai hợp tử. Các em chia sẻ 50% genes. Có thể khác nhau
về giới tính, màu mắt, nhóm máu v.v.
Kết quả cho thấy những phân tích nguyên nhân phái tính của người
đồng tính bao gồm 32% là do di truyền.

Kích thích tố (Hormones):
Hormones tạo nên những tính chất về tâm sinh lý. Những
điều này được định hình do ảnh hưởng của những kích thích tố trong thời gian
phát triển ban đầu (đặc biệt intra-uterine). Một số chịu ảnh hưởng do những
thời gian phát triển nguy kịch.
Anh chị em cùng huyết thống:
Do ảnh hưởng từ các anh trai. Là con trai trong một gia đình có
nhiều anh trai. Nhưng những người chị lại không có ảnh hưởng này.
Môi trường xã hội:
Nơi chốn làm việc, bạn bè giao du, và ngay cả môi trường học
đường, những thầy cô, các môn học, những sách vở đọc, tìm hiểu và tra cứu.
THỪA NHẬN CỦA XÃ HỘI
Năm 1973, Hiệp Hội Các Bác Sỹ Tâm Thần Hoa Kỳ (APA) trong một cuộc thăm dò ý kiến 5.854 các bác sỹ tâm thần (psychiatrist) đã bỏ phiếu loại hội chứng đồng tính khỏi chứng bệnh tâm thần, trong khi đó chỉ có 3.810 vị vẫn cho rằng đồng tính là một hình thức tâm bệnh. Kết quả là mặc dù đồng tính không còn bị liệt vào danh sách tâm bệnh, nhưng đã được thay thế bằng một tên gọi là "Rối loạn xu hướng tình dục" cho những người "xung đột với" xu hướng tình dục của họ. “sexual orientation disturbance” for people “in conflict with” their sexual orientation. Mãi đến năm 1987, hội chứng này mới hoàn toàn được loại khỏi tiêu chuẩn định bệnh những bệnh nhân tâm thần.
Sau đó, Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO), vào năm 1992 cũng loại bỏ
chứng bệnh này khỏi danh mục tâm bệnh. Và ghi chú rằng đây là một tình trạng thuộc
phái tính chứ không do lựa chọn.
Ngày nay, trong tâm lý trị liệu tại Mỹ và Âu Châu, khi gặp những
trường hợp liên quan đến đồng tính, hình thức trị liệu chính là khuyến khích những người này chấp
nhận quan niệm phái tính của mình, giúp họ tự tin và sống trưởng thành hơn về
mặt tâm lý.
Tóm lại, đồng tính không còn được coi như tình trạng tâm bệnh. Các nhà khoa học cho
đến nay vẫn không tìm ra được lý do chính đáng của hiện tượng này, nhưng đưa ra
lý thuyết cho rằng, đồng tính là do sự phức tạp về di truyền, nội tiết, và những ảnh hưởng môi trường. [https://en.wikipedia.org
› wiki › Homosexuality. Homosexuality - Wikipedia]
Tuy nhiên, đó chỉ là cái nhìn của tâm lý, của Tổ Chức Y Tế Thế
Giới. Riêng
về khía cạnh luân lý và xã hội, cái nhìn này vẫn chưa được nhiều người chấp
nhận. Và đó là lý do day dứt
cho những người trong cộng đồng LGBTQ, và cho cả phần đông các nhà giáo dục,
luân lý, tôn giáo, và đặc biệt, những phụ huynh có con em trong trường hợp này.
ỨNG DỤNG THỰC HÀNH
Đồng tính là một vấn đề hiện còn đang gây ra nhiều
tranh cãi và nhiều vấn đề liên quan đến đời sống của những người trong cộng
đồng LGBTQ. Đây là vấn đề không hề đơn giản và dễ dàng để trả lời ủng hộ hay
phản đối, thương hay ghét, chấp nhận hay không chấp nhận. Quan niệm của mỗi
người còn tùy vào
ảnh hưởng gia đình, giáo dục, văn hóa, xã hội và tôn giáo.
Riêng về vấn đề tôn giáo, nếu để mình rơi vào quan niệm
chủ quan về luân lý, thành kiến, và quá khích, người ta sẽ không dễ dàng chấp
nhận những người đồng tính. Nhưng trong một cái nhìn khác, căn cứ vào câu nói
của Đức Giáo Hoàng Phanxicô trả lời ký giả Andrea Tornielli trong cuộc họp
báo trên chuyến bay từ Rio de Janeiro trở về Roma ngày 28 tháng Bẩy, 2013 liên quan đến chủ đề những người đồng
tính, ngài nói: “Tôi là ai mà phán xét” (who am I to judge) Qua câu nói này, nhiều người đã cho rằng Đức
Giáo Hoàng đứng về phía những người đồng tính. Nhưng trong thực tế, câu trả lời
không có nghĩa là đúng
hay sai, đồng ý hay không đồng ý. Nó chỉ phản ảnh cái nhìn luân lý về sự phán xét và kết án người
khác.
Tuy nhiên nếu căn cứ vào kết quả khảo cứu của giáo sư
Christopher C. H. Cook, với 32% là do di truyền, 25% môi trường gia đình,
và 43% môi trường đặc biệt, thì chúng ta có thể tin rằng đồng tính và đời sống
đồng tính có 68% xác suất đến từ những lý do khác ngoài di truyền mà khoa tâm lý, giáo
dục có thể ảnh hưởng tốt. Và đây là những gì mà phụ huynh, các nhà giáo dục,
các nhà luân lý có thể làm được, bao gồm 3 việc đó là: Đề phòng, hướng dẫn, và
đồng cảm.
Đề phòng:
Khi nói đến đề phòng là nói đến những gì cần phải làm để ngăn
cản một chuyện sẽ xảy ra. “Phòng bệnh hơn chữa bệnh.” Với 25% ảnh hưởng do môi
trường gia đình, điều mà cha mẹ có thể làm là bảo toàn sự chung thủy của hôn nhân và xây
dựng một gia đình hạnh phúc. Điều đáng buồn là nhiều vợ chồng lấy nhau, đã sinh con đẻ cái,
bây giờ lại ly dị và chuyển qua sống đời đồng tính. Chồng sống với một người
đàn ông, vợ sống với một người đàn bà.
Ngoài ra, nếu con cái thấy cha mình rượu chè, cờ bạc, trai gái,
bỏ bê trách nhiệm và nhất là lỗ mãng, hành hung mẹ mình, liệu người con gái có
muốn lấy chồng không? Hoặc ngược lại, một bà mẹ suốt ngày lười biếng, ăn quà,
sắm sửa, đỏm dáng, lăng nhăng bồ bịch, thì liệu người con trai của bà có muốn
lấy vợ hay không? Cũng trong bầu khí gia đình, nếu người anh, người chị, sống
buông thả, trai gái, thất tình, chán đời, ly dị, liệu người em có muốn bước vào
đời sống hôn nhân theo những tấm gương đó hay không? Đây là những nỗi ám
ảnh mà nhiều bạn trẻ vẫn thường tâm sự, và tỏ ra nghi ngờ cái hạnh phúc của hôn
nhân, gia đình.
Còn lại 43% những yếu tố khác như giáo dục gia đình, giáo dục
học đường, ảnh hưởng bạn bè, ảnh hưởng môi trường làm việc, xã hội, tôn
giáo…
Hướng dẫn:
Nếu nhìn về phương diện hướng dẫn thì với 68% các trường hợp mà
ta gọi là đồng tính vẫn có cơ hội để được hướng dẫn, trị liệu. Và đây là công việc
của cha mẹ, phụ huynh, các nhà giáo dục, đạo đức và tâm lý. Điều này cũng cho
thấy có nhiều trường hợp đồng tính chẳng qua chỉ vì bị mê hoặc, dụ dỗ, nhất
thời yếu đuối, bị sức ép của gia đình, bạn bè, xã hội chứ thực chất không
phải là người tự sinh ra đã mang sẵn những yếu tố di truyền bất di dịch về phái
tính.
Đồng cảm:
Sau cùng, trở lại với con số 32% là do di truyền. Nhưng vẫn theo
giáo sư Cook, thì tính chất di truyền này cũng rất phức tạp. Riêng di truyền
theo đặc tính song sinh cũng đã chia thành 2 trường hợp. Song sinh cùng trứng,
và song sinh khác trứng. Thêm vào đó, những yếu tố phát triển bào thai như kích
thích tố, những trường hợp mang thai đặc biệt. Tóm lại, số những người đồng
tính một cách thực sự - đồng tính tự bản chất - tuy chưa được xác
định, nhưng có lẽ chỉ là con số ít ỏi. Và trong trường hợp này, cách hữu hiệu nhất để đối phó hoặc hướng dẫn là chấp nhận và
thương yêu, nâng đỡ. Giáo dục cuối cùng là giúp các em nhận thức về mình, về con
người và xu hướng phái tính của mình để sống sao hạnh phúc, xứng đáng với nhân
phẩm và giá trị của mình.
THAY LỜI KẾT
Tóm lại, đồng tính, hôn nhân đồng tính là những đề tài
mang tính xã hội, đạo đức
xã hội, và tâm lý. Tôi đã có dịp nghiên cứu về vấn đề này từ năm 1980 lúc còn là
sinh viên trong chương trình Tâm Lý Ứng Dụng. Ngày 15 tháng 11 năm 2013, tôi
cũng đã trình bày về đề tài “Phong hóa Việt Nam và mối quan hệ đồng tính” tại Trung Tâm Mục Vụ
Tổng Giáo Phận Saigon do Soeur Hồng Quế tổ chức, cùng với Đức Cha Louis Nguyễn
Anh Tuấn lúc đó là giám đốc, và một bác sỹ y khoa. Buổi hội thảo hôm đó rất sôi
nổi, hào hứng và tạo cơ hội để các em đồng tính có dịp nói lên cảm nghĩ và suy
nghĩ của mình.
Nếu chỉ nhận định vấn đề bằng cảm tính và tự nhiên ta sẽ rất dễ
rơi vào tình trạng hoặc thái quá, hoặc bất cập. Điểm chính ở đây là nếu chúng ta có một người con đồng tính, hoặc nếu chính chúng ta
là người đồng tính thì việc cần thiết nhất vẫn là chấp nhận sự thật về con mình
hay về chính mình. Tiếp đến là hướng dẫn con mình cũng như tìm cho mình một lối
sống thích hợp, hạnh phúc, xứng đáng với phẩm giá và tư cách của một con người.

Trần Mỹ Duyệt
Hẹn gặp lại