Kể từ cuối thập niên 1980 của thế kỷ trước, khi những bước chân đầu tiên
của tôi đặt trên ngưỡng đại học, cũng là những bước chân đánh dấu ngày tôi rời
xa quê Ngoại, và là chính nơi chôn nhau cắt rốn. Đó là một miền quê thanh bình thuộc
phía Đông của miền Nam, một chốn quê chan chứa tình người, tình đất..
Ở đó là một
trong những xứ đạo cổ xưa nhất của Giáo hội Việt Nam, nơi đã cho tôi những
tháng ngày bình yên, êm ả, cùng nỗi hạnh phúc ngập tràn của tuổi thơ trăm yêu
ngàn nhớ. Khác hẳn chốn xa xôi, tấp nập, đầy tiếng ồn, đầy bụi khói, đầy tranh
giành, bon chen… giữa một thành phố lớn, nơi tôi hằng ngày phải hối hả cùng
dòng người bất tận để lên giảng đường…
Bởi phải trầm
mình giữa chốn phố thị không một cảm tình, không một phút giây yên lặng, càng
làm tôi nhớ quê hương da diết. Vùng đất và xứ đạo của miền quê ấy đã trở thành
huyết quảng trong tôi…
Nhưng cũng thật
bẽ bàng. Ngày nay, quê hương tôi đang đô thị hóa quá nhanh. Nhanh đến chóng
mặt. Đã nhiều lần tim tôi phải nhói lên những tình cảm khó tả, hình như nó
chuyển từ trạng thái thảng thốt sững sờ đến da diết đau, khi chứng kiến mọi
loại cơ giới đang “lột xác” quê hương mình.
Vì thế, tôi muốn
gởi lòng mình trở về tuổi thơ như một lời cám ơn quê hương, đồng thời tỏ bày
những trĩu nặng trước hiện thực đang diễn ra.
I. QUÊ NGOẠI SỐNG ĐỘNG TRONG KÝ ỨC ĐỜI TÔI.
Tự bao giờ người
ta đã đặt cho làng quê êm ả và thơ mộng của tuổi thơ tôi cái tên mà bao nhiêu
thời gian trôi xa, quê tôi vẫn khoác trên mình.
Nó hầu như in
sâu vào tâm não tôi, đến nỗi tôi cũng chẳng cần thắc mắc tại sao lại có cái tên
ngộ nghĩnh như vậy. Chỉ có những kỷ niệm của thời thơ ấu mới giúp tôi hiểu được
điều đó mà thôi.
Đó là cái thời
tôi còn là thằng bé trưa không ngủ, lén mẹ đi dầm nắng bắt con chuồn chuồn, bị
mẹ đánh, sợ hãi nép vào lòng Ngoại. Cái thuở thằng bé lên năm, tối ngủ hay rúc
vào giường của Ngoại, gối đầu lên tay Ngoại, thích được Ngoại kể chuyện đời
xưa. Huyền thoại về vùng đất thân yêu quê mình là một trong những câu chuyện
đời xưa mà tôi nhớ nhiều nhất…
Vào thời xa xưa,
không rõ thời gian nào nữa, có một người lái đò đã châm lửa thiêu mình để tự
tử. Thế là người dân trong vùng đã đặt tên cho mảnh đất mà mình đang sống đúng theo
nghĩa đen mà hành động của người lái đò đã thực hiện khi tự kết liễu đời mình…
Quê tôi không có
sóng, không có biển, để cho ai khi còn bé cứ chiều theo mẹ ra bãi cát đón cha
từ ngoài khơi đánh cá về. Cũng không có núi cao để ai ngồi dưới chân núi nhìn
lên đỉnh thèm thuồng được một lần lên đó mà phóng tầm mắt ra khắp nơi cho thỏa
thích...
Với ký ức tuổi
thơ tôi, quê mình chỉ có dòng sông nước xanh quanh năm hiền hòa trôi lặng lờ
bên những bụi dừa nước um tùm trĩu quả. Dòng sông ấy đã bao lần “mở nước ôm tôi
vào dạ” (Tế Hanh - Nhớ con sông quê hương) trong những trưa hè oi bức; dòng sông
ấy cũng đã nhiều lần cho tôi những “ổ bánh mì kẹp thịt” bằng tàu lá lục bình và
những bông hoa tím ngát của nó…
Và bên dòng sông
ấy, mãi cho đến khi tôi lớn lên và phải rời xa quê hương, cái bến đò xưa vẫn
còn hiện diện. Nó như dấu chứng về cái bến đò mà ngày xưa người lái đò đậu ghe
của mình vào đó... Người ta cũng không ngần ngại gọi tên nơi mà bến đò hiện
diện là xóm Bến Đò, để phân biệt với các xóm khác nơi xứ đạo của một miền quê.
Đẹp hơn cả vẫn là khi đứng từ bến đò nhìn về tháp chuông của ngôi nhà
thờ cổ kính, nhà thờ xóm đạo quê tôi, được xây cất trên một đỉnh đồi nhỏ đối
diện với dòng sông.
Những buổi hoàng hôn, tiếng chuông nhà thờ lại ngân nga cùng với muôn
tiếng chim về tổ rộn ràng, làm cho dòng sông như trở mình, chuyển sang một màu
tím thẳm đẹp lạ lùng.
Ngôi nhà thờ cổ kính gần ba trăm năm tuổi đời, đã được trùng tu nhiều
lần, qua bao thời đã là trung tâm đức tin của bao nhiêu thế hệ người tín hữu.
Quê hương đã cho tôi thành người. Còn xóm đạo miền quê đã nuôi dưỡng đức
tin của tôi, để từ nơi này, tôi hãnh diện khoe mình là Kitô hữu, là người tiếp
bước cha ông xây dựng và phát triển đức tin.
Nếu quê hương đã chứng kiến ngày tôi chào đời để làm người, thì xóm đạo
miền quê và ngôi nhà thờ cổ kính ấy đã nâng niu tôi trong ngày tôi lãnh bí tích
Rửa tội để làm người tín hữu và làm con Thiên Chúa.
Cùng với thời gian, tôi lớn dần. Cũng chính tại ngôi nhà thờ của vùng
quê yên bình ấy, tôi lần lược lãnh các bí tích khai tâm còn lại. Rồi cũng từ
nơi lưu luyến quý yêu này, tôi đã cất bước ra đi theo ơn gọi mà Thiên Chúa đã
gieo trong tôi, đã mời gọi tôi...
Ngày tôi lãnh bí tích Truyền chức, một lần nữa, ngôi nhà thờ cùng với xứ
đạo quê nhà đầy trân đầy quý ấy – nơi tôi đã lớn lên từng ngày không chỉ trong
thân xác, nhưng trong niềm tin, trong tình mến và ân sủng của Thiên Chúa, nơi
đã dâng tặng trong tôi cả một bầu trời kỷ niệm – tưng bừng chứng kiến giây phút
tôi bước tới Bàn Thánh Chúa: từ đây tôi trở thành linh mục của Chúa.
Hân hạnh biết chừng nào, tự hào biết chừng nào, cao quý biết chừng nào,
đáng yêu biết chừng nào…, người con của quê hương lại được lãnh nhận thánh chức
linh mục trên chính nơi mình sinh ra và lớn lên…
Phía ngoài mặt tiền nhà thờ vốn đã hết sức
trầm mặc, sẽ rất đỗi yên bình cho mọi tâm hồn tìm về, còn có một mái trường, mà
thuở tôi còn mài đũng ở lứa tuổi trung học, đã ắp đầy trong tôi khôngbiết bao
nhiêu niềm thương, nỗi nhớ bên thầy cô, bạn bè... Làm sao tôi có thể quên được
kỷ niệm của một thời vụng dại. Nó, mái trường thân yêu ấy như vẫn còn giữ mãi,
còn âm vang mãi tiếng cười, tiếng đùa giởn của lũ học trò "xứng đáng"
đứng sau quỷ và ma...
Nhớ nhất những
chiều mưa bay, nhìn qua song, phía ngoài ô cửa sổ lớp học, những cánh hoa dầu,
cứ mỗi cơn gió giật, lại bị cuốn xoay tít, xoay tít, hết đám này đến đám khác,
bay từ phía khuôn viên nhà thờ sang sân trường, cứ như một trận pháo hoa chỉ có
một màu xanh nhạt nổ tung trên nền trời...
Thời nào cũng
vậy, cái tuổi của đám học trò trung học, là tuổi mơ tuổi mộng. Vui đó, rồi lại
chợt buồn. Cái tuổi ươm mầm mơ ước, nhiều sáng tạo, nhưng cũng lắm tinh nghịch,
sống mãi trong tôi, chiếm mất một phần ký ức của tuổi thơ tôi. Cái tuổi thần
tiên diệu kỳ, đã mấy chục năm vội vã đi qua đời người, vẫn không dễ xóa nhòa…
Ở nơi ấy – quê
tôi, đất trời tươi mát còn có tiếng chích chòe hót đòi tổ trong những lùm cây ăn
trái xanh um tùm mỗi khi bắt đầu mùa trái chín. Những quả tươi vừa chín cứ đỏ
hồng, chỉ nhìn là đã thấy ngọt ngào quyến rũ!
Nhìn chúng trổ
sai oằn, tôi lại càng thương Ngoại vô cùng. Bao nhiêu năm trong đời, Ngoại gắn
bó với chúng để cho chúng được nên vóc, nên hình như hôm nay. Chúng là màu xanh
của quê hương. Nhờ màu xanh ấy, mà quê hương càng đẹp và nổi tiếng.
Nhưng Ngoại mới
chính là người tạo ra màu xanh! Yêu quê hương, tôi càng yêu Ngoại tôi nhiều
lắm. Dù năm tháng trôi xa, Ngoại tôi nay đã trở thành người thiên cổ. Tôi vẫn
nhớ như in hình bóng Ngoại ngày xưa ấy, dù tóc đã bạc, lưng đã còng, tháng ngày
Ngoại vẫn chăm tay cho màu xanh đẹp mãi. Ôi tôi muốn hái dâng Ngoại những quả
chín đỏ tươi, to và ngọt ngào!...
Nơi ấy – quê tôi,
cũng lại là nơi của nghề gốm sứ phát triển. Sản phẩm của nghề này có mặt hầu
hết mọi nơi trên đất nước này, thậm chí bây giờ người ta còn xuất sang nhiều
quốc gia hiện đại.
Ngành gốm sứ
không biết tự bao giờ đã đi vào nếp sinh hoạt của mọi người như: một tích nước
trà, chén, dĩa, bình cắm hoa… Ngoài ra còn có những chén hứng mủ cao su tròn
hình bán nguyệt như hình những chiếc bánh trôi nước cắt đôi mà Ngoại vẫn thường
làm phần thưởng cho tôi mỗi khi quyển vỡ của tôi xuất hiện những điểm mười tươi
tắn (tuy những chén này lớn gấp nhiều lần chiếc bánh trôi nước), …
Quê tôi là vậy
đó! Tôi yêu nơi mình sinh ra và lớn lên bằng thứ tình yêu của một đứa con được
nuôi dưỡng từ vị ngọt ngào của phù sa đất Tổ. Xin cho tôi được hôn lên mảnh đất
quê mình bằng một cái hôn thật nồng nàn. Xin cho ước mơ của tôi được trở thành
hiện thực: Sẽ là một đứa con trung hiếu của quê hương được nối nghiệp cha ông
mà gìn giữ những gia sản đã có từ ngàn xưa!
II. CHỢT NGẬM NGÙI TRƯỚC NHỮNG ĐỔI THAY.
Tôi đã từng có
một ước mơ thế đấy. Tôi biết, ước mơ trung hiếu nối nghiệp cha ông gìn giữ gia
sản quê hương không là ước mơ nhỏ. Bản thân như ánh đom đóm trong đêm, không dễ
phá tan màn đêm. Một mình không thể cáng đáng nhiệm vụ gìn giữ gia sản của cả
quê hương, nếu thiếu ý thức của mọi con người sống trên Quê Cha Đất Tổ.
Dù sao với một
ước mơ, tuy mong manh, vẫn chính là động lực thôi thúc người con của quê hương
lao mình về phía tương lai, xây dựng đời mình bằng những nỗ lực, những trang bị
có thể có được trong giới hạn của bản thân, để nếu không thể làm được gì cho
quê mình, thì ít là góp phần mình như một bằng chứng của lẽ sống, nếu có ai
trong đời muốn tìm sự san sẻ…
Phải suy nghĩ
như thế để tự an ủi mình, để bớt nhói khi nhìn lại những kỷ niệm của một thời,
nay chỉ còn đúng với nghĩa của hai từ “kỷ niệm”…
Vì lợi nhuận, chính những người con đã biến quê mình không còn là
"đất lề quê thói". Bởi với sự phát triển ồ ạt của kinh tế thị trường,
văn hóa của một vùng quê đã "lai căn", nếp sống yên lành của người
quê bỗng thực dụng, trở nên xa lạ khác thường. Bên cạnh đó, những vườn cây xanh
ngút mắt, những dòng kênh xanh mơ mộng ngày nào, những mặt hàng gốm sứ giờ chỉ
là… cổ tích...
Người ta đã mạnh
tay, nhẫn tâm giết sạch cả một niềm yêu, cả một màu xanh của quê hương bằng
nhiều chất độc hại nhất. Riêng về môi trường, đất và nước đã nhiễm nhiều loại
tạp chất có thể giết chết con người, chứ đừng nói là cây trái. Một bằng chứng
rất rõ: Trên tất cả các sông rạch hiện có ở quê tôi, nhiều loại cá, tôm, lươn,
ếch… đã tiệt chủng.
Bởi không còn sinh lợi, người dân quê tôi đua nhau bán đất. Bán sạch.
Bán không tiết xót! Ngày xưa, khi Ngoại tôi còn sống, bởi lòng tin của con
người lúc ấy đầy ắp, lợi nhuận chỉ từ cây trái chứ không do đất đai, vì thế
những khu vườn của những nhà hàng xóm chỉ cách nhau một con mương, một bờ dậu
bằng những khóm râm bụt, những cây trà rừng uốn mình cong queo rất đẹp. Còn bây
giờ, đừng nói đến những nhà hàng xóm, ngay cả những người chung một lòng mẹ
sinh ra, vẫn có thể giết nhau để dành từng tấc đất, tìm tư lợi vật chất cho bản
thân.
Tôi ngỡ ngàng
xót xa mỗi lần về thăm quê Ngoại. Cả một màu xanh bình yên hạnh phúc, một thời
ôm ấp, chở che tuổi thơ tôi, đã biến mất không còn vết tích. Nhà nhà san sát
như dãy phố nằm giữa thôn quê. Người người lạ hoắc đến nỗi đi trên quê mình mà
cảm giác như lạc vào chốn xa xôi. Các loại máy móc của cơ giới ngày đêm vỗ ầm
ầm đinh tai nhức óc...
Chỉ còn mảnh
vườn của Ngoại tôi đơn độc run rẩy giữa bầu trời xanh thăm thẳm trong vắt. Chỉ
có bầu trời muôn đời vẫn thế, vẫn nghiêng mình che chở mọi người không phân
lành dữ, tốt xấu. Chỉ có bầu trời mãi bao dung, vẫn bình yên như muôn đời bình
yên. Khác hẳn trời xanh. Lòng người đổi thay đến chóng mặt, đến khiếp sợ. Sự đổi
thay ấy đã bóp chết một rừng xanh của quê hương trăm thương ngàn nhớ.
Mảnh vườn của
Ngoại dẫu còn đó, nhưng những hàng cây xanh ngày nào giờ chỉ là những cành cây
bị tuốt trọc lá, giơ thẳng lên trời như dấu hiệu của kẻ đầu hàng, chỉ còn biết cầu
xin chút lòng yêu thương của con người. Những cành cây khẳng khiu đau đớn đang
van nài, đang cầu cứu, đang đòi quyền được sống. Những ai chỉ vì tham lam, nỡ
giết chết quá khứ và đập phá cả tương lai có thấu chăng tiếng ai oán của quê
hương ngàn đời âu yếm?
Cái bến đò đã
gắn liền với người quê hàng trăm năm, nay dưới bàn tay con người, đã... biến
mất. Thay vào đó, một con đường hiên ngang, sạch, rộng được kiên cố hóa bằng bê
tông nhựa đang chạy dọc bờ sông.
Quê hương thanh
bình của tuổi thơ tôi, giờ đây cũng hết thanh bình. Người ta nói “đất lành chim
đậu”. Nhưng “chim” đậu nhiều, “đất” chẳng còn lành.
Cùng với bến đò
huyền thoại, đất đai của người quê cũng thay ngôi đổi chủ. Người ta đang chứng
kiến từng ngày những ngôi biệt thự, thậm chí những tòa lâu đài của bao nhiêu kẻ
lạ của "thời hiện đại", mọc lên sang sát khoe dáng mình thuộc hàng
"đỉnh" của cái chốn mà giờ đây, quê chẳng ra quê, phố chẳng ra phố...
Còn những con
người sang trọng, trang điểm lộng lẫy và xa lạ cứ nhìn sẽ khiến người quê càng
tủi. Họ, cứ mỗi sáng bước ra khỏi nhà là ngồi trên những xe hơi bóng lộn, chiều
về, cánh cổng to, khỏe kia chỉ mở cho xe và người ngồi trên nó lách vào, rồi
lại đóng sập...
Nằm giữa quê,
nhưng những ngôi nhà chẳng có chút quê, Sống giữa quê nhưng những con người ấy
chẳng có chút chân quê. Quê tôi, giờ đây, nếu phải gọi cho đúng, không biết
phải gọi là gì...!
Đối lập hoàn
toàn với gam màu sang trọng vừa nói là những anh chị em xa quê phải sống bằng
đủ mọi loại nghề, thượng vàng hạ cám, nhiều nhất là làm công nhân trong các nhà
máy, các khu công nghiệp.
Nếu ngày xưa, quê
hương nổi tiếng cây trái miệt vườn, thì ngay hiện tại, nó đang nổi tiếng về
những căn nhà tạm bợ, gọi là nhà trọ, đón nhận hàng hàng lớp lớp người lũ lượt
từ khắp mọi miền đất nước đổ về để tìm kế sinh nhai.
Bởi đón nhận quá
nhiều người, quá nhiều thành phần xã hội, an ninh trên miền quê này đã trở nên
phức tạp. Tệ nạn xã hội ngày càng nhiều, có mặt ở mọi ngóc ngách.
Ngày xưa, nhà
thưa thớt. Nhà cách nhà bằng một khoảng vườn rộng, rộng đến ngút mắt, mà sao
không ai sợ bất cứ điều gì. Căn nhà của Ngoại nằm giữa vườn cây âm u trầm mặc, không
cần đóng cửa, chỉ có tấm phên che hờ hững cản bớt gió lùa mỗi đêm, vậy mà sao
giấc ngủ cứ ào về không gợn một chút nỗi sợ nào!…
Còn bây giờ, nhà
nào cũng hết cửa trong đến cửa ngoài, cửa nào cũng khóa thật chặt, vẫn không
khỏi nơm nớp âu lo.
Khi người ta khóa chặt cửa nhà, vô tình, người ta cũng đang khóa chặt
lòng mình. Tình làng nghĩa xóm biến đi đâu! Nhà nhà đóng cửa, vì thế, người
người xa cách. Nhà nhà đóng cửa, người người nhốt mình như ở nhà giam. Cũng
phải thôi. Hàng xóm của mình, gọi là hàng xóm, nhưng biết ai quen, ai lạ. Tự giam
mình là phương cách cuối cùng để bảo vệ sự an nguy của chính mình…
Tôi vẫn thường
về thăm quê mình. Bình thường, một người con trở về quê hương, sẽ vui mừng, sẽ
thấy lòng mình khoan khoái. Còn tôi, mỗi lần đứng trên mảnh đất quê mình, sao
lại cứ nhớ quê mình da diết. Nhớ đến lạ lùng. Nhớ đến nao lòng. Nhớ đến quặn
thắt một niềm đau khó tả…
Tình yêu quê
hương của một thời đã qua như một bầu trời ký ức dằn xé trong tôi, làm tôi cứ đau
đáu khi phải chứng kiến sự lạ lẫm, vô hồn của hôm nay trên chính nơi chôn nhau
cắt rốn.
Tôi không thể
hiểu, sự đổi thay đang diễn ra trên quê mình có thật sự đúng, hay sự tiếc nuối
về cái chất thanh bình, yên ắng của một thuở đã qua đang ngự trị trong tôi là
sai? Chỉ biết rằng, người viễn xứ trở về quê xưa đã hụt hẩng đến ngỡ ngàng, ngơ
ngác và kinh ngạc…
Đúng sai chưa thể biết được. Chỉ biết một điều, tôi đã yêu quá quê mình.
Yêu như yêu từng sợi tóc, từ thớ thịt, từng giọt máu lưu chuyển khắp châu thân.
Chính vì yêu,
tôi đã không kềm được xúc động. Và những xúc động ấy, dù có theo nhau tuôn ra
trên đầu ngọt bút như mọi người thấy trong bài viết này, thì hãy thông cảm cho
tôi. Bởi khi “yêu”, người ta có thể làm mọi thứ theo cách “yêu” của mình!...
…Thế là ước mơ của
tôi, từ nay sẽ không bao giờ tìm lại được. Rời khỏi quê hương, mong trở thành
người con trung hiếu của quê hương đã ấp ủ hồn tôi, đã quấn lấy đời tôi. Cứ thế
mà tôi lao mình về phía trước để cố hoàn thành tốt nhất trách nhiệm và ơn gọi
đời mình.
Những lao tác
dọc đường đời, đã chạm phải nhiều thử thách, có lúc đớn đau rát buốt, có lúc
như chồn chân mỏi gối, người xưa trở lại, muốn tìm đến chiếc võng tre xưa, nằm
đu đưa dưới gốc cây mát rượi, hay khoác những bụm nước ngọt ngào dưới con mương
xanh có bầy cá rô tung tăng bơi lội, để rửa khuôn mặt nhiễm bụi đời…, mong
khuây khỏa tâm hồn, mong được loại bỏ những căng thẳng, mong chút gió đồng quê
lướt nhẹ da người để cảm nhận sự an lành thanh thản…
Nhưng không còn
có thể nữa rồi. Tất cả đã lùi vào quá khứ. Đất quê xưa, nay chỉ còn lại một
miền kỷ niệm. Câu chuyện về trái cây miệt vườn một thời nổi tiếng đã sớm trở
thành dòng cổ tích, để ngày mai khi kể lại cho thế hệ đời sau, người quê sẽ bắt
đầu bằng hai tiếng “Ngày xưa…”, y như Ngoại tôi đã từng kể về huyền thoại quê
hương: “Ngày xưa có ông Lái đò tự Thiêu…”.
Nghe sao cổ họng
đắng đót… Ngậm ngùi… Và tiếc xót…!!
Lm. JB NGUYỄN MINH HÙNG