CN
29 TN B
LỄ
TRUYỀN GIÁO
Xh
22,20-26; 1 Tx 1,5c-10; Mc
16,15-20
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mc 16,15-20
(15) Người nói với các ông: “Anh em hãy
đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi lòai thọ tạo. (16) Ai tin
và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ. Còn ai không tin, thì sẽ bị kết án. (17) Đây
là những dấu lạ sẽ di theo những ai có lòng tin: Nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được
quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. (18) Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhầm
thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những
người này sẽ được mạnh khỏe. (19) Nói xong Chúa Giê-su được đưa lên trời và ngự
bên hữu Thiên Chúa. (20) Còn các Tông đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa
cùng họat động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các
ông rao giảng.
2. Ý CHÍNH:
Trước khi về trời, Đức Giê-su đã truyền
cho các môn đệ tiếp tục sứ mạng loan báo Tin Mừng Nước Trời khắp thế gian. ai
tin và chịu phép rửa thì sẽ nên dưỡng tử của Thiên Chúa và được hưởng ơn cứu độ.
Còn kẻ không tin là đã tự loại mình ra khỏi Nước Trời và sẽ bị kết án. Cuối
cùng Đức Giê-su còn hứa ban cho các ông quyền làm nhiều phép lạ. Các môn đệ đã
vâng lời Thầy đi khắp nơi loan báo Tin Mừng.
3. CHÚ THÍCH:
- C 15-16: + Anh em hãy đi khắp
tứ phương thiên hạ: Trong thời gian 3 năm rao giảng Tin Mừng, Đức
Giê-su chỉ được sai đến cùng các con chiên lạc của nhà Ít-ra-en. nhưng sau khi
phục sinh, Người đã trao cho các Tông đồ sứ mạng truyền giáo phổ quát là đến với
muôn dân + Loan báo Tin Mừng: theo Hy ngữ, Tin Mừng ( Euaggelion)
là một “Tin Vui, Tin Mừng”. Có thể hiểu Tin Mừng Đức Giê-su theo hai nghĩa: Một
là chính “Tin Mừng được Đức Giê-su công bố”. Hai là “Tin Mừng về Đức Giê-su”, Đấng
ban ơn cứu độ nhờ mầu nhiệm chết và sống lại của Người. + cho mọi loài thọ
tạo: Nghĩa là mọi dân mọi nước (x. Mt 28,19). + Ai tin và chịu
phép rửa sẽ được cứu độ: Tin là mở lòng đón nhận Đức Giê-su là Đấng Cứu
Thế Con Thiên Chúa. Chịu phép rửa là nhận ơn tha tội và ơn tái sinh để nên người
mới, nên dưỡng tử của Thiên Chúa để được sống đời đời.+ còn ai không tin
thì sẽ bị kết án: Thực ra, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian
không phải để lên án, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ (x Ga
3,17). Còn những kẻ không tin thì đã bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh
Con Một Thiên Chúa. Họ giống như cành nho bị tách lìa khỏi thân cây là Đức
Giê-su, nên sẽ bị khô héo và bị quăng vào lửa đời đời (x. Ga 15,5-6). +
Riêng những người không tin Đức Giê-su nhưng không phải do lỗi của họ thì có được
Chúa ban ơn cứu độ không?: Những ai tuy không biết Đức Ki-tô, nhưng
theo lương tâm ăn ở ngay lành, thì Chúa sẽ lo liệu cho họ có đủ phương tiện cần
thiết để được rỗi linh hồn. Chỉ những kẻ cố tình làm tay sai cho ma quỷ, ra tay
làm điều gian ác và không chịu hồi tâm sám hối thì chắc sẽ bị sa vào hỏa ngục.
Vì hỏa ngục được lập ra “dành cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó” (Mt 25,41).
- C 17-18: + Đây là những dấu lạ sẽ
đi theo những ai có lòng tin: Ngay
trong thời gian giảng đạo, khi sai các Tông đồ đi thực tập truyền giáo, Đức
Giê-su đã ban cho các ông quyền trên các thần ô uế để các ông xua trừ chúng và
chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền trong dân (x. Mt 10,1-5). Giờ đây trước khi
về trời, Đức Giê-su lại trao quyền làm các dấu lạ cho các ông. + Nhân
danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn,
và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những
người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khỏe: Khi viết Tin Mừng
(khoảng năm 65), thánh Mác-cô đã nghe biết các phép lạ do các Tông đồ thực hiện.
Chẳng hạn: vào lễ Ngũ Tuần, các ông đã được đầy ơn Thánh Thần, bắt đầu nói
các thứ tiếng khác lạ (x. Cv 2,4). Thánh Thần cũng ngự xuống trên gia đình
Co-nê-li-ô và cho họ nói các thứ tiếng lạ (x. Cv 10,44-46). Nhiều dấu lạ
điềm thiêng được thực hiện trong dân nhờ bàn tay của các Tông đồ (x. Cv 5,12).
Ông Phê-rô đặt tay trên bệnh nhân hoặc chỉ cần bóng của ông phớt
qua đã đủ để họ được lành bệnh, và thần ô uế cũng phải xuất ra (x. Cv 5,15-16).
còn Tông đồ Phao-lô thì chữa lành một người bị bại chân tại Ly-tra (x.
Cv 14,8-10); Tại đảo Man-ta, Phao-lô đã bị rắn độc bám vào tay mà không hề hấn
gì (x. Cv 28,1-6); Ông cũng đã cầu nguyện và đặt tay chữa lành nhiều bệnh
nhân (x. Cv 28,8-9); Ngay cả chiếc áo ông mặc qua cũng có năng lực làm
cho cơn bệnh biến đi và tà thần phải xuất ra (x. Cv 19,11; 20,9-12).
- C 19-20: + Chúa Giê-su được rước
lên trời: Như Ê-li-a thời
Cựu Ước đã “lên trời trong cơn gió lốc”(2 V 2,11), thì thân xác Đức Giê-su cũng
được rước lên trời trên các tầng mây, và từ nay Người không còn lệ thuộc vào
không gian thời gian như khi còn sống nữa. + và ngự bên hữu Thiên Chúa:
Đức Giê-su đã được Chúa Cha tôn vinh, được vào trong vinh quang của Chúa
Cha, với quyền cai trị vũ trụ (x. Mt 28,18; Ep 1,21-22). + ra đi rao giảng
khắp nơi: các Tông đồ đã vâng lời Chúa Giê-su, đi rao giảng Tin mừng,
làm chứng cho Đức Giê-su tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê,
Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất (x. Cv 1,8). + có Chúa cùng hoạt động
với các ông...: Từ đây, Chúa Ki-tô sẽ luôn hiện diện trong Hội thánh (x
Mt 28,20). Người ban Thánh Thần để Hội thánh tha tội cho người ta như Người đã
làm (x Ga 20,21-22). Người cũng hứa ban cho Hội thánh làm được những việc lớn
lao hơn Người nữa, đó là đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc với
quyền năng Thánh Thần giúp sức (x Ga 14,12).
4. CÂU HỎI:
1) Mầu nhiệm Phục sinh có tầm quan trọng
thế nào đối với sứ mệnh được sai đi? Các Tông đồ được Đức Giê-su sai đến với những
ai?
2) Tin Mừng Đức Giê-su có những ý nghĩa
nào?
3) Phải có những điều kiện nào để được
hưởng ơn cứu độ của Đức Giê-su?
4) Những ai chắc chắn sẽ bị sa vào hỏa
ngục? Những người chưa có đức Tin, nhưng theo lương tâm ăn ở ngay lành có được
hưởng ơn cứu độ không?
5) Trong thời gian giảng đạo, khi sai
môn đệ đi thực tập truyền giáo, Đức Giê-su đã ban cho các ông những quyền gì?
6) Trước khi về trời, Đức Giê-su trao sứ
mệnh loan Tin mừng cho các Tông đồ kèm theo những dấu lạ nào?
7) Lời Chúa phán về các dấu lạ kèm theo
Lời rao giảng của các Tông đồ đã ứng nghiệm như thế nào trong thời Giáo Hội sơ
khai?
8) Thời Cựu Ước, Ngôn sứ nào được rước
lên trời? Thời Tân Ước hai nhân vật nào cũng được lên trời? Chúa Giê-su thăng
thiên khác với việc mông triệu của Đức MA-RI-A thế nào?
9) Người lương dân luôn ăn ngay ở lành
mà chết, có được hưởng ơn cứu độ của Chúa Giê-su không?
10) So sánh Lời Chúa Giê-su truyền cho
các Tông đồ trước khi lên trời là “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ...”(x
Mt 28,19) và “Hãy nên chứng nhân của Thầy...” (x Cv 1,8) giống và khác nhau thế
nào?
11) Sau khi lên trời, Chúa Giê-su còn hiện
diện trong Hội thánh nữa không?
12) Từ đây, Chúa Thánh Thần được ban cho
Hội thánh để làm gì?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Anh em sẽ là chứng nhân của
Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái
đất” (Cv 1,8).
2. CÂU CHUYỆN:
1) LỐI SỐNG PHẢN CHỨNG LÀ RÀO CẢN NGƯỜI LƯƠNG
ĐẾN VỚI CHÚA:
Ngày nọ một người Tin lành bước
vào một nhà thờ công giáo tìm hiểu cụ thể về đạo. Rủi thay, hôm đó ông chứng
kiến cảnh tượng không mấy tốt đẹp: Một số người dự lễ thiếu nghiêm túc, nói
chuyện với nhau và nhìn ngó loanh quanh. Ông ta cảm thấy bất bình và sau đó đã từ
chối theo đạo với lý do: “Các người Công giáo không tin ở thánh lễ. Họ không
tin vào sự hiện diện đích thực của Chúa Giê-su Thánh Thể thì làm sao tôi có thể
tin được”.
Câu chuyện trên đây cho thấy: Nhiều
khi những việc làm, lời nói vô tình hay cố ý của người tín hữu chúng ta đã
thành rào cản, ngăn người khác đến với Chúa và Giáo hội.
2) VIÊN NHẠC SĨ VÀ CHIẾC VĨ CẦM QUÍ GIÁ:
PHÍT KÂY-DƠ-LÊ (fritz
kreisler) (1875-1962) là một nhạc sĩ vĩ cầm nổi tiếng khắp thế giới. Ông đã tạo
được một tài sản đồ sộ nhờ các buổi hòa nhạc và soạn nhạc, nhưng lại hào phóng
cho đi gần hết những của cải kiếm được. Do đó, trong một chuyến đi lưu diễn,
ông phát hiện ra một cây vĩ cầm rất đẹp và âm thanh của nó nghe thật tuyệt vời,
nhưng ông lại không có đủ tiền để mua ngay. Sau một thời gian để dành, khi ông
mang tiền đến mua thì cây vĩ cầm kia đã được bán cho một nhà sưu tầm nhạc cụ.
Phít theo địa chỉ tìm đến chủ nhân mới của cây vĩ cầm để xin được mua lại. Nhà
sưu tầm lúc đầu không muốn bán, vì theo ông ta cây đàn này là một bảo vật quí
giá. Phít cảm thấy chán nản thất vọng. Tuy nhiên trước khi ra về, ông nảy ra
sáng kiến và nói với người chủ mới của cây đàn như sau: “Tôi xin phép được chơi
một bài trước khi cây đàn này bị rơi vào cỏi thinh lặng”. Được chủ nhân đồng ý,
viên nhạc sĩ tài ba này đã làm cho ông chủ cây đàn vô cùng xúc động khi nghe được
tiếng đàn du dương réo rắt của nó qua bàn tay tài hoa của nhạc sĩ, đến nỗi ông
ta đã phải thốt lên: “Này Kây-dơ-lê ơi! Tôi không có quyền giữ cây đàn này. Nó
thuộc về ông. Ông hãy đem nó đi khắp thế giới, để thiên hạ được thưởng thức âm
thanh tuyệt vời của nó”.
Loan báo Tin Mừng là sứ vụ được Chúa
Giê-su trước khi lên trời trao cho Hội Thánh, trong đó bao gồm các vị chủ chăn
và mọi người tín hữu. Khi đã có đức tin, chúng ta không có quyền im lặng, nhưng
phải loan báo cho mọi người tin theo Chúa với hết khả năng sức lực của mình.
3) TRUYỀN
GIÁO BẰNG SỰ HY SINH QUÊN MÌNH PHỤC VỤ:
Một du khách Mỹ theo đạo Tin Lành đi du
lịch qua nước An-giê-ri và đến thăm một nhà thương chuyên chữa bệnh phong cùi.
Thấy một nữ tu công giáo người Mỹ đang
làm việc tại nhà thương nầy, ông quay sang nói với ông bạn đi chung như sau:
- “Được trả lương một vạn đô-la cho mỗi
năm làm việc tại đây, tôi cũng không ham !”
Nữ tu nghe được liền nói với ông ta:
- “Ông nói đúng. Có trả cho tôi lương mười
vạn đô-la mỗi năm, tôi cũng không làm.”
- “Thế thì sơ đòi lương bao nhiêu? ”
- “Thưa ông, tôi không đòi gì cả!”
- “Vậy tại sao sơ lại có mặt ở đây để phục
vụ những bệnh nhân cùi hủi đáng ghê tởm này?”
Vị nữ tu liền cầm lấy cây Thánh Giá trước
ngực mình giơ lên và nói:
- “Ông có thấy Chúa Giê-su chịu đóng
đinh này không? Sở dĩ tôi có mặt ở đây là do yêu mến Người. Trong các vết
thương của những người cùi đáng thương nầy, tôi đều nhìn thấy các vết thương của
Chúa Giêsu đã phải chịu xưa trên thánh giá. Sở dĩ tôi làm được công việc nầy,
là nhờ mỗi ngày tôi đều kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu; nếu không, tôi sẽ
không thể làm nổi những công việc ghê tởm ở đây, dù chỉ một ngày !” (Nguồn
vietcatholic.net).
4)
TRUYỀN GIÁO BẰNG PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG:
Năm 1939, tại Nữu Ước, một tối kia, cha
Hall nghe một cú điện thoại. Lạ thay, người đang nói với cha là một người cha
chưa quen biết. Ông nói ông đang có chuyện buồn trong gia đình và muốn được
tâm sự.
Cho rằng ông ta đã quay lầm số, cha Hall định xin lỗi ông
và gác máy. Nhưng được ơn Chúa soi sáng, cha đã cầm lấy cây Thánh
Giá trên bàn viết của cha và dịu dàng nói tiếp với người đàn ông kia: "
Xin ông cứ việc nói, tôi xin lắng nghe đây”.
Sau một tiếng
đồng hồ tâm sự, ông khóc nức nở và cám ơn cha Hall rối rít.
Và từ đó, một
cách truyền giáo mới bắt đầu: truyền giáo bằng điện thoại. Mỗi tuần, cha Hall
được người ta gọi đến hỏi han tới ba ngàn lần!
Cha Hall đã
được Giáo Quyền cho phép truyền giáo bằng việc tư vấn lắng nghe điện thoại để
nói Lời Chúa với những ai cần được an ủi, hướng dẫn họ qua phương tiện truyền
thông đại chúng nầy.
Ngày nay
các bạn trẻ công giáo còn có thể loan báo Tin Mừng qua facebook. Có thể tải lên
những câu chuyện ngắn hay và
có ý nghĩa tìm thấy trên mạng, những bài thơ nội dung súc tích, những
lời bình luận với cái nhìn đức tin dựa vào Lời Chúa về những vấn đề thiết thực
giữa đời thường…
5) TRUYỀN GIÁO BẰNG GƯƠNG SÁNG PHỤC VỤ:
Chuyện kể rằng,
trong một chuyến lên Đà-lạt, xe của Đức Cha Phao-lô Seitz (tên Việt là Đức Cha Kim),
đang leo đèo Prenn thì gặp một đôi vợ chồng đang loay hoay với chiếc xe của họ
bị trục trặc máy móc thế nào đó mà không chạy được. Đêm đã xuống. Trời tối om,
không ai nhận ra ai. Đức Cha xuống xe, và khi đã hiểu cớ sự, ngài đã không nói
không rằng, chui xuống gầm chiếc xe của hai vợ chồng, dùng đèn pin tìm chỗ trục
trặc, và ít phút sau đã khắc phục được sự cố. Hai vợ chồng vui mừng và rối rít
cám ơn vị ân nhân lạ mặt của mình. Khi họ hỏi ngài là ai, thì ngài trao cho họ
một tấm danh thiếp rồi chào từ giã họ. Người chồng mở đèn trên xe và đọc: +Paul
Seitz, Tòa giám mục Kontum.
Ngưỡng mộ tấm
lòng bác ái thật sống động của một chức sắc cao trong đạo, hai người và các con
của họ đã đến xin theo đạo. Người chồng là bác sĩ Khiêm mà ai đã sống lâu năm ở
Đà-lạt đều biết.
3.THẢO LUẬN:
1) Thánh Tê-rê-xa nhỏ đã được tôn phong làm tiến sĩ Hội
thánh. Bạn nghĩ gì về kiểu truyền giáo bằng cầu nguyện và hy sinh của chị? Bây
giờ lối truyền giáo này có còn hợp thời không?
2) Mẹ Tê-rê-xa Can-quýt-ta đã hiến cả đời mình cho người
cùng khổ, bệnh tật,... Bạn nghĩ phương cách đó có lay động trái tim của con người
hôm nay không?
4. SUY NIỆM:
1) TẠI SAO PHẢI TRUYỀN GIÁO?:
Có người
lên tiếng chỉ trích công việc truyền giáo của Hội thánh Công giáo. Theo họ: “Đạo
nào cũng tốt vì đạo nào cũng dạy người ta phải ăn ngay ở lành và đều bắt nguồn
từ Trời, nên cần chi phải rao giảng về đạo Công giáo cho ngừoi ta? Tốt hơn là cứ
khuyên họ hãy sống thật tốt theo đúng tôn chỉ của đạo giáo mà họ đang theo”.
- Thực ra,
nếu xét
về mặt luân lý tự nhiên thì xem ra mọi tôn giáo đều tốt và đều dạy người ta hướng
thượng, ăn ngay ở lành, giữ đức công bình và sống từ bi nhân ái. Nhưng
về mặt
tín lý, giáo lý của các tôn giáo khác so với Ki-tô giáo chỉ là thứ chân
lý chủ quan, hàm chứa nhiều sai lạc và làm méo mó hình ảnh của Thiên Chúa. Do
đó, nói chung các tôn giáo không có giá trị ngang nhau về tín lý và luân lý.
- Ta có thể
ví chân lý của các tôn giáo khác giống như ánh sáng lờ mờ của cây đèn dầu, và
có tôn giáo lại còn đi đến chỗ lầm lạc khi dạy thờ lạy thần minh là người phàm
hay thú vật để được chúng ban ơn… Còn chân lý của Ki-tô giáo do phát xuất từ Đức
Giê-su là Con Thiên Chúa làm người nên đáng tin. Đức Giê-su đã khẳng định:
"Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống.
... Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14, 6). Ki-tô
giáo ví như ánh sáng chói chan của mặt trời chính ngọ, giúp các tín hữu nhận
biết, tôn thờ yêu mến một Thiên Chúa tòan năng chân thật, nhờ đó, họ sẽ nhận được
hạnh phúc và sự sống đời đời như công đồng Va-ti-ca-nô II đã khẳng định: “Tất cả những gì
tốt lành chân thật trong các tôn giáo chỉ có giá trị như để chuẩn bị cho họ
lãnh nhận Tin Mừng, và như một hồng ân mà Đấng soi sáng mọi người ban cho, để
cuối cùng họ sẽ được sống đời đời” (LG số 16).
2) VỀ SỨ VỤ TRUYỀN
GIÁO CỦA HỘI THÁNH:
- Đức
Giê-su đã trao sứ vụ truyền giáo cho các môn đệ trước khi lên trời “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở
thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh
em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,19-20). Người cũng dạy môn đệ hãy làm chứng
nhân cho Người: “Anh em sẽ là chứng
nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri-a và cho
đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Như vậy sứ mạng loan Tin Mừng là một nhiệm
vụ phải làm chứ không phải là việc tự do theo sở thích như tông đồ
Phao-lô đã khẳng định: "Đối với tôi rao giảng Tin mừng không phải là lý do
để tự hào, nhưng là một sự cần thiết buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi
không rao giảng Tin mừng." (1 Cr 9,16).
-
Truyền giáo cụ thể là truyền điều gì?:
Truyền giáo
không phải chỉ là rao giảng một số chân lý về Chúa Giê-su, nhưng là truyền
đức tin mà chính mình đã nhận được sau khi gặp Chúa, cho những người
chưa biết Chúa để họ cũng tin thờ Chúa như mình, giống như An-rê sau khi tin Đức
Giê-su là Đấng Thiên Sai, đã giới thiệu Người cho em là Si-mon (x. Ga 1,40-42).
Hoặc như Phi-lip-phê sau khi gặp và tin Đức Giê-su đã dẫn bạn là Na-tha-na-en đến
gặp Người (x. Ga 1,45-51). Truyền giáo bằng cách truyền lòng tin yêu Chúa như
thế sẽ có sức lay động lòng người hơn là chỉ trình bày giáo lý cho người chưa
tin.
3) THỰC TRẠNG VIỆC TRUYỀN GIÁO HIỆN NAY:
- Công cuộc truyền giáo trên thế giới và tại
Việt Nam còn nhiều giới hạn:
Suốt hai ngàn năm qua, Giáo Hội
luôn nỗ lực truyền giáo, đã có tiến bộ nhiều: từ con số Mười Hai tông đồ, lớn
dần tới hơn một tỉ người. Tuy nhiên, so với số dân thế giới thì con số đó chỉ
khoảng 17%. Đặc biệt ở Việt Nam chúng ta, số giáo dân chỉ gần 8% dân số toàn
quốc. Thế mà số người trở lại hàng năm thật ít ỏi. Theo niên giám Giáo hội Công
giáo Việt Nam năm 2015 cho biết: Năm 2013 cả Giáo hội Viêt Nam với 6 606 495
giáo dân, với 29 152 Giám mục, linh mục, tu sĩ, chủng sinh mà chỉ có 41 395
người lớn trở lại đạo. Đó là chưa nói đến những người công giáo bỏ đạo theo các
tôn giáo khác. Hơn nữa, phần lớn những người tân tòng chỉ để lấy vợ lấy chồng
công giáo.
- Một số hàng rào cản bước đường người lương đến với Chúa:
Trong lịch sử hơn hai ngàn năm
qua của Hội Thánh đã có những lầm lỗi của con cái Hội Thánh: Từ vụ án xét xử
bất công nhà bác học Galileo Galilei, tới những nhóm người bị Tòa Dị
Giáo kết tội, các người Hồi Giáo bị Thập Tự Quân sát hại và các người Châu Phi
bị bắt làm nô lệ với sự góp tay của viên chức Giáo Hội. Các cuộc ly giáo chia rẽ Hội Thánh với Chính
thống giáo, Tin Lành giáo, Anh giáo…
Trong thực trạng Hội Thánh Việt
nam hiện nay chưa sống đức tin: Nhiều gia đình Công giáo thường xuyên bất hoà,
anh em xâu xé nhau, vợ chồng không chung thuỷ,nạn phá thai, ly dị, … Một số người
Công giáo đã hành xử bất công, rượu chè say sưa, cờ bạc đề đóm, chửi lộn đánh nhau,
quyết ăn thua đủ với nhau… Đã có những người chồng người vợ tân tòng bỏ đạo vì gặp
phải chồng vợ công giáo không nêu gương sống đạo.
4)
PHẢI CHU TOÀN SỨ VỤ TRUYỀN GIÁO
HÔM NAY THẾ NÀO ?:
- Bằng việc củng cố đức tin:
Để chu toàn
sứ mạng thông truyền đức tin cho người khác, trước hết chúng ta cần củng
cố đức tin của mình
vào Đức Giê-su, bằng việc năng đọc và suy niệm Lời Chúa mỗi ngày dưới ơn soi dẫn của
Chúa Thánh Thần. Thư Chung của Hội đồng Giám mục Việt Nam năm 2013 đã kêu gọi
các thành phần Dân Chúa, nhất là các linh mục, hãy nhiệt thành cộng tác để đổi
mới phương cách loan báo Tin Mừng cho phù hợp với thời đại hiện nay. Nhờ canh tân đời sống và đổi mới nếp sống đạo,
hy vọng sẽ đem lại cho Hội thánh Việt Nam một mùa lúa chín dồi dào. Cụ thể, các vị chủ chăn muốn mỗi người
tín hữu chúng ta hãy dành thời giờ và tâm huyết cho việc “Phúc-Âm-hóa gia
đình”, tức là liệu sao cho việc học giáo lý hôn nhân nghiêm túc hơn, và tổ chức
thường xuyên giờ Kinh Tối gia đình theo hướng canh tân, thêm phần suy niệm Lời
Chúa.
- Bằng việc
chủ động “đi bước trước” đến với lương dân:
Chủ động làm quen với người lương chưa nhận biết
Chúa, theo cách Đức Giê-su đã làm
khi mở lời xin nước uống với người phụ nữ Sa-ma-ri để làm quen, rồi sau đó từng bước trình bày
cho chị biết về Nước Hằng
Sống (x. Ga 4,7-10).
Cụ thể,
trong những ngày này, mỗi tín hữu sẽ noi gương Mẹ Tê-rê-xa Can-quýt-ta chủ động kết thân với một
người lương, coi họ như anh chị em trong gia đình ruột thịt để quan tâm và giúp
đỡ họ. Mỗi gia đình công giáo hãy kết thân với một gia đình lương dân, sẵn sàng
chia ngọt sẻ bùi với họ: Khi có kỵ giỗ, cưới xin hay lễ lạc, hai bên nên mời
nhau đến chia sẻ tình hiệp thông để thắt chặt mối giây thân ái. Nhờ đó, Tin Mừng
sẽ ngày một lan truyền giống như ánh nến Phục Sinh được lan truyền từ người này
sang người bên cạnh trong thánh lễ đêm Vọng Phục Sinh.
- Bằng việc
chia sẻ tình thương cụ thể:
Mẹ Tê-rê-xa Can-quýt-ta đã nêu gương
truyền giáo bằng việc năng cầu nguyện và chia sẻ ngọn lửa yêu thương cho tha
nhân. Mẹ không giảng Tin Mừng bằng lời nói, nhưng bằng tình yêu kèm theo cử chỉ
thân ái với những người nghèo đói bệnh tật và bị bỏ rơi. Mẹ cũng không chủ
trương yêu người chung chung, nhưng là yêu từng người cụ thể gặp trong cuộc sống.
Với tâm tình này, Mẹ Tê-rê-xa đã nhận được sự cảm phục của rất nhiều người trên
thế giới. Cũng bằng phương thức cụ thể nầy, Giáo hội công giáo Hàn Quốc đã gia
tăng gấp đôi số tín hữu chỉ trong mười năm!
5. NGUYỆN CẦU:
Lạy Chúa Giê-su, Tình Yêu của con, nếu Hội
thánh được ví như một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau, thì hẳn Hội thánh
không thể thiếu một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất là trái tim, một
trái tim bừng cháy tình yêu. Chính tình yêu làm cho Hội thánh hoạt động. Nếu
trái tim Hội thánh vắng bóng tình yêu, thì các Tông đồ sẽ ngừng rao giảng, các
vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình... Lạy Chúa Giê-su, cuối cùng con đã tìm thấy
ơn gọi của con chính là tình yêu. Con đã tìm thấy chỗ đứng của con trong Hội
thánh: nơi Trái Tim Hội thánh, con sẽ là tình yêu, và như thế con sẽ là tất cả.
Vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong Hội thánh. Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa
ban cho con, mọi ước mơ của con sẽ được thực hiện (Theo thánh nữ Tê-rê-xa Hài Đồng
Giê-su).
X. HIỆP
CÙNG MẸ MA-RI-A.-Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM
ĐAN VINH - HHTM