HIỆP
SỐNG TIN MỪNG
CN 19 TN B
1 V 19,4-8; Ep 4,30-5,2; Ga 6,41-51
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga 6,41-51.
(41) Người Do Thái liền xầm xì phản đối,
bởi vì Đức Giê-su đã nói: “Tôi là Bánh từ trời xuống”. (42) Họ nói:
“Ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta,
chúng ta đều biết cả. Sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống?”
(43) Đức Giê-su bảo họ: “Các
ông đừng có xầm xì với nhau! (44) Chẳng ai đến với tôi được, nếu
Chúa Cha, là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy. Và tôi, tôi sẽ
cho người ấy sống lại trong ngày sau hết.
(45) Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: “Hết mọi người sẽ
được Thiên Chúa dạy dỗ”. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của
Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi. (46) Không phải là đã có ai thấy Chúa
Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy
đã thấy Chúa Cha. (47) Thậ̣t, tôi bảo thật các ông: Ai tin thì được
sự sống đời đời. (48) Tôi là Bánh Trường Sinh. (49) Tổ tiên các ông
đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. (50) Còn Bánh này là Bánh
từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. (51) Tôi là Bánh Hằng
Sống từ trời xuống. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và Bánh
tôi sẽ ban tặng, chính là Thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”.
2. Ý CHÍNH:
Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã khẳng định Người từ
trời mà đến. Điều này làm cho dân chúng xầm xì phản đối vì họ
nghĩ rằng họ đã biết rõ về gia thế của Người. Nhưng dù vậy, Đức
Giê-su vẫn quả quyết: Người từ nơi Chúa Cha mà đến, và sẽ ban Thịt
Máu mình làm lương thực đi dường, để ai lãnh nhận bí tích này sẽ được
kết hiệp mật thiết với Người, được sống nhờ Người và sẽ về Nước Trời
với Người sau này.
3. CHÚ THÍCH:
- C 41-42: + Người Do Thái xầm xì phản đối bởi vì
Đức Giê-su đã nói: “Tôi là Bánh từ trời xuống”: Người Do Thái
đây ám chỉ dân chúng đi theo Đức Giê-su từ hoang địa về thành
Ca-phác-na-um. Họ xầm xì bàn tán khi nghe Người tuyên bố Người là
Bánh từ trời mà đến. + Ông này chẳng phải là Giê-su, con của
ông Giu-se đó sao?....: Dân Do thái nghĩ rằng họ đã biết rõ về
thân thế và cha mẹ của Người.
- C 43-44: + Các ông đừng có xầm xì với nhau: Đức
Giê-su biết đám đông đang bàn tán để phản đối lời Người vừa nói, vì
họ chỉ nghĩ về phạm vi nhân tính của Người. + Chẳng ai đến với
tôi được, nếu Chúa Cha không lôi kéo...: Người cho họ biết đức
tin là một hồng ân do Thiên Chúa ban cho. + Và tôi sẽ cho người
ấy sống lại trong ngày sau hết: Ai tin vào Đức Giê-su
thì sẽ được Người cho sống lại vào ngày tận thế và sẽ được sống
mãi mãi.
- C 45-46: + “Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy
dỗ”: Câu này lược tóm lời tuyên sấm của I-sai-a: “Con cái
ngươi, Đức Chúa đều dạy dỗ” (x. Is 54,13), và lời sấm của
Giê-rê-mi-a: “Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm
chúng Lề Luật của Ta. Chúng sẽ không còn phải dạy bảo nhau, kẻ
này nói với người kia: Hãy học cho biết Đức Chúa. Vì hết thảy
chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta” (Gr 31,33-34). +Phàm
ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi: Tuy
mọi người đều được Thiên Chúa kêu gọi và dạy bảo, nhưng chỉ ai nghe
và đón nhận lởi giáo huấn của Chúa Cha thì mới có thể tin Đức
Giê-su là Đấng Thiên Sai. + Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha
đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã
thấy Chúa Cha: “Thiên Chúa là Thần Khí”, là Đấng thiêng liêng
vô cùng (x. Ga 4,24). “Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ, nhưng Con Một
là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người
đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1,18). Thời Xuất hành, dù được thường
xuyên đàm đạo với Đức Chúa, nhưng ông Mô-sê cũng chỉ thấy được phía
sau lưng của Đức Chúa chứ không được nhìn thấy tôn nhan Ngài (x. Xh
33,23). Nhưng Đức Giê-su, Đấng từ nơi Chúa Cha mà đến, đã xem thấy
Chúa Cha và có thể mặc khải về Ngài cho chúng ta.
- C 47-51: + “Ai tin thì được sự sống đời đời”: Ai
tin vào Đức Giê-su thì sẽ không phải chết trong tội nữa, nhưng sẽ được
Người ban sự sống đời đời, như lời thánh Phao-lô: “Cũng như vì
một người duy nhất đã sa ngã (là A-đam), mà mọi người bị Thiên
Chúa kết án, thì nhờ một người duy nhất (là Đức Giê-su), đã
thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng được Thiên Chúa làm cho nên
công chính, nghĩa là được sống” (Rm 5,18). + “Tôi là Bánh Trường
Sinh”: Đức Giê-su tự ví mình là “Bánh Trường Sinh” hay
“Bánh Hằng Sống”, ám chỉ bí tích Thánh thể mà Người sẽ thiết lập
sau này. “Hằng sống” là một đặc tính của Thiên Chúa (x. Mt 16,16), và
của Chúa Ki-tô Phục Sinh (x. Rm 6,9). + Tổ tiên các ông đã ăn
man-na trong sa mạc, nhưng đã chết: Man-na là lương thực Đức
Chúa ban cho dân Ít-ra-en trong thời kỳ Xuất Hành, là thứ đồ ăn dễ bị
hư nát (x. Xh 16,19-21). Dù dân Ít-ra-en đã ăn man-na, nhưng họ vẫn phải
chết do tội đã phạm (x. Tv 78,29-31) và không được sống đời đời (x. Ga
6,58). + Còn Bánh này là Bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi
phải chết: Đức Giê-su mới là Bánh từ trời thực sự, và ai ăn
Bánh này sẽ “không phải chết” (x. Ga 6,50), nhưng “được sống muôn đời”
(x Ga 6,51.54), “được ở trong Người” (x Ga 6,56), “được sống nhờ Chúa
Cha” (x. Ga 6,57), “được sống và được sống dồi dào” (x. Ga 10,10). +
“Bánh Tôi sẽ ban tặng chính là Thịt Tôi đây, để cho thế gian được
sống”: Nói câu này, Đức Giê-su đã liên kết 5 chiếc bánh trong
phép lạ nhân bánh ra nhiều (x. Ga 6,9) và bánh không men trong
bữa tiệc Chiên Vượt Qua, với Thịt Mình của Người trong Bí tích
Thánh thể (x. Mt 26,26). Từ của ăn nuôi sống thể xác, được Đức
Giê-su biến thành Bánh Hằng Sống đem lại sự sống đời đời (x.
Ga 6,48), thành Thân Mình chịu khổ nạn và được Phục sinh của
Người (x. Ga 6,51), và thành của ăn thần thiêng nuôi dưỡng đức
tin (x. Ga 6,51.63), giúp các tín hữu tiến về Nước Trời để được sống
muôn đời (x. Ga 6,58).
HỎI: 1) Dân Do thái xầm xì phản đối Đức Giê-su về câu
nói nào của Người? Tại sao? 2) Đức Giê-su dạy đức tin có được là do
đâu? 3) Ai tin vào Đức Giê-su thì sẽ nhận được gì? 4) Câu “Hết mọi
người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ” tóm lược lời tuyên sấm của hai vị ngôn
sứ nào và 2 lời đó như thế nào? 5)Thiên Chúa thiêng liêng được mệnh
danh là gì? Ai mới được nhìn thấy Thiên Chúa và mặc khải Ngài cho
chúng ta? 6) Ai tin vào Đức Giê-su sẽ được hưởng ơn gì? Thánh Phao-lô
đã so sánh giữa A-đam cũ với Đức Giê-su ra sao? 7) Khi ví mình là Bánh
Trường Sinh, Đức Giê-su muốn ám chỉ về bí tích nào Người sẽ thiết lập
sau này? 8) Man-na là lương thực được Đức Chúa ban cho dân Ít-ra-en khi
nào và có đem lại sự sống đời đời không? 9) Đức Giê-su là Bánh Hằng
Sống từ đâu mà đến và ai ăn Bánh này sẽ nhận được ơn gì? 10) Đức
Giê-su hứa sẽ thiết lập bí tích Thánh Thể thế nào và để làm gì?
II.SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: Chúa phán: “Tôi là Bánh Hằng
Sống từ trời xuống. ai ăn Bánh này sẽ được sống muôn đời”(Ga 6,51).
2.CÂU CHUYỆN:
1) GIẤC MỘNG TRƯỜNG SINH BẤT TỬ CỦA TẦN THỦY HOÀNG:
Tần Thủy Hoàng là hoàng đế Trung Hoa, sống khoảng 200 năm
trước Công Nguyên. Ông chính là người đã xây Vạn Lý Trường Thành dài hơn 2.000
dặm, là một kiến trúc duy nhất trên trái đất, mà các phi hành gia có thể quan
sát được từ ngoài không gian. Theo tạp chí National Geographic, Tần Thủy Hoàng
rất sợ chết, ông muốn được trường sinh bất tử, nên đã tìm đủ cách để có thể cải
lão hoàn đồng. Một ngày kia, các chiêm tinh gia đã kể cho ông nghe về một hòn
đảo thần tiên ở biển Đông, dân cư ở đấy đã khám phá ra bí quyết sống trường
sinh bất lão, nên ai cũng sống lâu. Tần thủy Hoàng liền phái một số tàu thuyền
chất đầy ngọc ngà châu báu lên đường, hy vọng có thể đổi những đồ quý giá lấy
bí quyết trường sinh mang về. Nhưng dân chúng tại đây đã nhất quyết không chịu
đổi bí quyết trường sinh của họ lấy bất cứ thứ gì.
Không lấy được thuốc trường sinh, nên khi già yếu, Tần
thủy Hoàng đã ra lệnh cấp tốc xây một nhà mồ cho mình như một cung điện nguy
nga tráng lệ, rồi ông cho trang trí nhà mồ bằng các đồ trân châu quý giá, lát
tường nhà bằng vàng bạc và truyền sẽ chôn sống hàng trăm cung nữ với ông sau
khi ông chết, hy vọng kiếp sau sẽ được sống an
nhàn sung sướng như thần tiên. Nhưng kẻ tàn bạo ham hưởng thụ ấy đã chỉ
làm vua được hơn chục năm và sống trên năm mươi tuổi thì chết.
Bí quyết để sống
vĩnh hằng đã được Đức Giê-su mặc khải
trong Tin Mừng hôm nay: "Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn
Bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là
Thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga.6,47). Ngày nay thánh lễ
chính là bàn tiệc gồm hai của ăn là Lời Chúa và Mình Thánh Chúa, là lương thực thiêng liêng ban sự sống đời đời cho ai lãnh nhận. Vậy chúng ta cần làm gì để được sống đời đời ngay từ hôm nay?
2) GIÁ TRỊ VÔ HIỆU CỦA
VIÊN THUỐC
TRƯỜNG SINH:
Thời Chiến quốc, có người đem dâng vua nước Sở một viên
thuốc bất tử. Người ấy đang bưng thuốc vào
triều, viên quan canh
cửa liền hỏi:
- Đây là cái gì?
- Là viên thuốc trường sinh bất tử tôi đem đến dâng tiến
cho đức vua.
- Viên thuốc này
có ăn được không?
Người ấy đáp:
- Ăn được.
Lập tức, viên quan liền cầm lấy viên thuốc mà ăn. Câu
chuyện đến tai nhà vua. Vua liền truyền bắt viên quan đến định xử tội khi quân
và sẽ bị chém đầu. Viên quan nghe án liền kêu oan:
- Thần đã hỏi người dâng thuốc và được ông ta nói đó là
viên thuốc trường sinh bất tử, nghĩa là ai ăn sẽ không bị chết nữa. Thần có hỏi
người ấy “ăn được không”, và người ấy đáp: ”Ăn được”, nên thần mới ăn. Thế là
thần vô tội mà lỗi tại người dâng thuốc. Hơn nữa, người dâng thuốc lại nói đó
là viên thuốc “trường sinh bất tử”, nghĩa là ai ăn vào sẽ không bị chết nữa.
Thế mà thần mới ăn, đã sắp phải chết. Vậy đó là “thuốc tử”, chớ sao gọi là
“thuốc bất tử” được? Nếu bệ hạ giết thần, là bệ hạ đã kết án oan cho người vô
tội, và chứng tỏ bệ hạ là người dễ bị kẻ khác mê hoặc lừa gạt.
Vua nghe viên quan đó nói có lý, nên đã tha không giết
nữa. (Nguồn: Cổ học tinh hoa)
Trong Tin mừng hôm nay Đức Giê-su nói: “Tôi là Bánh Hằng Sống từ
trời xuống. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và Bánh tôi sẽ
ban tặng, chính là Thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Qua
đó, Đức Giê-su đã mặc khải: ngoài cuộc sống đời này, còn một cuộc sống vĩnh
hằng đời sau, dành cho những ai tin vào Đức Giê-su, thể hiện qua việc lắng nghe
Lời Người và siêng năng ăn bánh Thánh Thể được Người ban cho.
3) QUYẾT TÂM CẢI GIÁO NHỜ TIN LỜI CHÚA
VỀ BÍ TÍCH THÁNH THỂ:
Hồng y NIU-MÂN (Newman) trước kia đã từng giữ
chức vụ Tổng Giám Mục Anh Giáo với bổng lộc hằng năm khá lớn. Dù
thuộc tầng lớp quí tộc và là chức sắc cao cấp của Anh Giáo như vậy,
nhưng ngài luôn bị lương tâm dày vò về các mầu nhiệm đức tin trong Tin
Mừng không sao lý giải được. Rồi đến một ngày, sau khi đã suy nghĩ kỹ
về sự khác biệt đức tin giữa Anh Giáo và Công Giáo, cuối cùng ngài
đã quyết định từ bỏ các chức vụ cao cấp và các đặc quyền đặc lợi
đang thụ hưởng của Anh giáo, để cải giáo theo đạo Công Giáo. Biết được
ý định của Niu-mân, bạn bè thân thích đã đến can ngăn để yêu cầu ngài
nghĩ lại. Họ nói: “Trước khi quyết định, xin ngài hãy cân nhắc cẩn
thận. Vì nếu ngài cải giáo thì không những bị mất tất cả các chức
danh và địa vị tinh thần, mà ngay cả lương bổng vật chất hằng năm
cũng không được hưởng nữa !” Nhưng Niu-mân đã thẳng thắn trả lời:
“Tiếc thì tôi cũng tiếc thật. Nhưng tôi đã suy nghĩ kỹ rồi. Chức vụ,
quyền hành và bổng lộc vật chất tuy đáng quí, nhưng có đáng là gì
so với những điều tôi nhận được khi trở nên thành viên của Hội Thánh
Công Giáo và Tông Truyền. Tôi sẽ lãnh nhận được ơn Thánh Thần và được chịu
các phép bí tích, nhất là được ăn tiệc Thánh Thể. Đó mới thực là
Bánh đem lại phúc trường sinh”.
Sở dĩ Niu-mân có được suy nghĩ và
quyết định sáng suốt như vậy, là do ngài đã nghe theo sự hướng dẫn
của Thánh Thần. Thực vậy, nếu không có ơn Thánh Thần, thì người ta
sẽ khó lòng hiểu được Lời Chúa Giê-su và sẽ không tin vào bí tích Thánh
Thể, như đám đông dân Do Thái và phần đông các môn đệ đã không tin Lời Chúa.
Họ đã chán nản bỏ đi và không muốn đi theo Đức Giê-su, vì họ không
thể chấp nhận được mầu nhiệm Thánh Thể này. Chỉ Nhóm Mười Hai là vẫn trung
thành đi theo Thầy, vì dù họ không hiểu Lời Thầy bằng lý trí, nhưng vẫn tin vào lời dạy của
Thầy, như ông Phê-rô đã đại diện anh em thưa: “Bỏ Thầy thì chúng
con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần
chúng con, chúng con đã tin và nhận biết: chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên
Chúa" (Ga 6,68-69).
4) PHÉP
LẠ VỀ CON LỪA QUÌ LẠY
THÁNH THỂ CHÚA:
Thánh AN-TÔN PA-DO-VA (1195-1231) là tu sĩ dòng
Phan-xi-cô khó nghèo. Ngài sinh tại Bồ-đào-nha nhưng sau này lại sống tại
nước Ý. Ngài có tài hùng biện với một lòng đạo đức sâu xa, nên luôn được mời đi
giảng thuyết ở nhiều nơi. Linh Mục An-tôn có biệt tài
chống lại lý luân của các lạc giáo, nhất là nhóm An-bi-gien-sê tại vùng Tây Nam
nước Pháp. Ngài rất có lòng sùng kính bí tích Thánh Thể. Một ngày nọ, An-tôn có
mặt tại Tu-lu để bác bỏ lạc thuyết của nhóm An-bi-gien-sê về bí tích Thánh Thể.
Cuộc tranh cãi rất sôi nổi. Với lý luận sắc bén, An-tôn đã làm cho nhóm lạc
giáo cứng miệng. Tuy thua về lý thuyết nhưng họ vẫn không đầu hàng. Ông trưởng
lạc giáo nói: “Bây giờ chúng ta hãy dẹp bỏ mớ lý luận kia để đi vào thực tế.
Nếu ông có thể chứng minh có Chúa Giê-su hiện diện thực sự trong Bánh Thánh
Thể, trước sự chứng kiến của mọi người, thì tôi sẽ từ bỏ lạc giáo để quay về đức tin Công giáo. Đầy tin
tưởng vào quyền năng của Chúa Thánh Thể, linh mục An-tôn trả lời: “Tôi chấp
thuận đề nghị của anh”.
Ông trưởng lạc giáo An-bi-gien-sê nói tiếp: “Ở nhà tôi có
một con lừa cái. Tôi sẽ nhốt nó vào chuồng và bắt nó nhịn đói 3 ngày. Đến ngày
thứ ba, tôi sẽ dẫn nó đến đây trước mặt mọi người, và dọn ra cho nó một thùng
lúa mạch thơm ngon. Còn ông, ông cũng đưa ra trước mặt con lừa ”cái” mà ông
gọi là Mình Thánh Chúa. Nếu con lừa đang đói mà không ăn thóc lúa, nhưng lại
quỳ lạy Thánh Thể, thì tôi sẽ tin vào giáo huấn của Hội Thánh Công Giáo.
Đúng ngày hẹn, toàn dân thành Tu-lu đứng chen chúc nhau
tại quảng trường chính, nơi sắp diễn ra cuộc thách thức, đang lúc linh mục
An-tôn sốt sắng dâng lễ trong một nhà nguyện gần đó. Đến giờ hẹn,
ông trưởng phe lạc giáo liền dắt con lừa cái của nhà ông đến quảng trường và không quên mang theo thùng
thức ăn thích hợp với nó. Nhóm lạc giáo hiện diện rất đông với nét mặt hân
hoan như cầm chắc phần thắng trong tay. Bấy giờ Linh mục An-tôn từ trong thánh
đường gần đó bước ra, tay giơ cao Bánh Thánh Thể mới được truyền phép trong
thánh lễ. Linh mục An-tôn
lớn tiếng nói với con lừa rằng: “Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, là Đấng đã
dựng nên ngươi. Tuy ta bất xứng, nhưng ta đang giữ Người trên tay, ta truyền
cho ngươi, hỡi con vật đáng thương, hãy mau đến quỳ gối thờ lạy Người. Cùng lúc
ấy, người ta cũng đưa thùng lúa kiều mạch đến trước mặt con vật. Lạ lùng thay,
con lừa không đoái hoài đến thức ăn hợp khẩu vị, mà đã vâng lời linh
mục An-tôn. Nó chạy đến gập
hai chân trước quì xuống và cúi đầu thờ lạy
Mình Thánh Chúa Giê-su.
Trước cảnh tượng ấy, các tín hữu Công Giáo vui mừng vỗ
tay reo hò để tạ ơn Chúa, đang khi nhóm lạc giáo kia ngơ ngác không biết ứng
phó thế nào. Cuối cùng ông trưởng nhóm lạc giáo đã chịu thua. Ông đã giữ lời
hứa là từ bỏ lạc giáo và khiêm tốn quay về tin theo giáo huấn chân thật của Hội
Thánh Công giáo.
5) ĐỐI THOẠI VỀ MẦU NHIỆM THÁNH
THỂ:
Pa-let-ti-na
là một vùng đất hiện vẫn còn rất đông người theo đạo Hồi. Một hôm, một vị thầy
lãnh đạo một cộng đoàn Hồi giáo mời một linh mục Công giáo đến để công khai
tranh luận về bí tích Thánh Thể trước sự hiện diện của các tín hữu đôi bên. Vị
thầy hỏi:
– Làm sao một miếng bánh nhỏ lại có thể trở
thành Đức Ki-tô được?
Vị
linh mục trả lời:
–
Được chứ sao lại không? Tôi xin minh chứng cho thầy biết bằng một thí dụ đơn
sơ. Nếu thầy ăn cơm, thầy có thể biến cơm thành máu thịt của thầy, có thật như thế
không nào? Vậy tại sao Chúa lại không thể biến tấm bánh nhỏ trở thành máu thịt
Chúa được?
Bậc
thầy đó lại hỏi tiếp:
– Làm sao Đức Ki-tô to lớn như thế lại có thể
ở trong miếng bánh nhỏ xíu?
Vị
linh mục trả lời:
–
Thầy hãy nhìn trời, nhìn núi và các thôn làng. Bầu trời thì mênh mông. Ngọn núi
thì cao lớn hùng vĩ, còn thôn làng thì rộng rãi bao la, thế mà con mắt nhỏ xíu
của thầy có thể chứa được tất cả. Nếu con mắt của Thầy làm được chuyện đó thì
tại sao Thiên Chúa lại không thể làm cho miếng bánh nhỏ xíu chứa đựng được Đức Ki-tô.
Bậc
thầy không chịu thua lại hỏi thêm:
– Làm sao có thể cử hành nhiều thánh lễ cùng
một lúc tại nhiều nơi trên thế giới, mà mỗi thánh lễ lại đều có Mình và Máu của
Đức Ki-tô được?
Vị
linh mục đáp:
–
Đối với Thiên Chúa không có gì là không thể làm được.
Rồi
để chứng minh cho câu trả lời này, vị linh mục lấy một tấm gương soi ném xuống
đất, khiến nó bể tan thành nhiều mảnh nhỏ. Tiếp đến, vị linh mục giơ tay chỉ
cho bậc thầy đang ngạc nhiên và nói:
–
Trước đây trong tấm gương này, thầy trông thấy gương mặt mình có phải không
nào? Và bây giờ thầy cũng trông thấy gương mặt mình trong từng mảnh nhỏ. Thế
thì tại sao Thiên Chúa lại không thể hiện diện tại nhiều nơi trong cùng một lúc
được.
Cuộc
tranh luận trên giúp chúng ta hiểu được phần nào mầu nhiệm Mình Máu Thánh Đức Giê-su
mà Giáo Hội cử hành bí tích Thánh Thể mỗi ngày. Vậy chúng ta phải có thái độ
nào khi đi tham dự Thánh lễ?
3. THẢO LUẬN: 1) Bạn sẽ tham dự thánh
lễ thế nào để đón nhận được sự sống đời đời do Chúa hứa ban? 2)
Sau thánh lễ, bạn cần làm gì để giới thiệu Chúa cho tha nhân, nhất là cho
những người nghèo hèn, bệnh tật và bị bỏ rơi… để họ cũng được chia sẻ niềm vui
ơn cứu độ và được tham phần vào sự sống đời đời?
4. SUY NIỆM:
1) Man-na: lương thực bổ sức cho dân Ít-ra-en trên đường về Đất hứa:
Dân Ít-ra-en dưới sự lãnh đạo của Mô-sê đã từ Ai
Cập tiến về miền đất Ca-na-an do Đức Chúa đã hứa ban cho Ap-ra-ham và
con cháu ông (x. St 12,5-7).
Trong suốt thời gian lưu lạc trong sa mạc, dân
Ít-ra-en tuy không còn bánh ăn nước uống vật chất như khi ở trong nước Ai Cập, nhưng
họ lại được Đức Chúa ban man-na từ trời rơi xuống (x Xh 16,15) và nước suối phát xuất từ tảng đá
(x Xh 17). Nhờ đó họ đã đủ sức vượt qua sa mạc hoang vu trong suốt thời gian 40
năm, để sau cùng về
tới miền Đất được Đức Chúa hứa ban
cho tổ phụ A-bra-ham và
con cháu. Đó là xứ Ca-na-an, mà nay là xứ Pa-lét-tin.
2) Bánh và
nước: bổ sức cho ngôn sứ Ê-li-a về tới núi của Chúa:
Sau khi tiêu diệt 450 sãi bụt Ba-an trên núi Các-men
(x. 1 V 18,20-40), ngôn sứ Ê-li-a đã bị hoàng hậu I-de-ven sai quân truy
bắt, nên ông đã phải chạy
đến Núi Khô-rép để được Đức Chúa bảo vệ.
Trong cuộc trốn chạy, có lúc ông bị đói khát mệt
mỏi và tuyệt vọng, chỉ muốn chết đi cho xong. Nhưng khi đang thiếp ngủ
dưới một gốc cây, ông đã được thiên sứ đến đánh thức và mang cho ông
bánh ăn nước uống. Nhờ được ăn bánh uống nước của Đức Chúa mà Ê-li-a
đã được hồi phục sức
khỏe để tiếp tục
cuộc hành trình tiến về Núi Thánh của Đức Chúa (x. 1 V 19,1-8).
3) Man-na Mới:
bổ sức cho các tín hữu trên đường về Nước Trời:
Man-na xưa là hình
ảnh của Bí Tích Thánh Thể do Đức Giê-su thiết lập trong thời Tân Ước. Người đã tự hiến mình làm lương thực
thiêng liêng ban sự sống đời đời cho thế gian khi tuyên bố: “Tôi là
Bánh Hằng Sống từ trời xuống… Bánh tôi sẽ ban chính là Thịt tôi để
cho thế gian được sống” (Ga 6,48.51).
Lương thực nói trên còn là Lời của Thiên Chúa như
Đức Giê-su đã nói: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn
nhờ mọi Lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Đnl 8,3; Mt 4,4). Chính Lời của
Thiên Chúa đã nhập thể làm người và ở cùng chúng ta, trở
thành Đức Giê-su (x Ga 1,14).
Từ đây ai muốn lên trời phải ăn được hai của ăn do Chúa Giê-su ban cho là bánh Lời Chúa và bánh Thánh Thể. Nhưng chúng ta phải ăn Bánh thánh của
Chúa thế nào?
4) Bánh Thánh
Thể hôm nay - mầm sống lại của cuộc sống mai sau:
Trong những cơn khủng hoảng kinh tế của
thập niên 1930, hàng triệu người Mỹ thất nghiệp, và hàng triệu người bị đói. Ở
một số thành phố, những nhóm tu sĩ tổ chức phát chẩn cho những người bị đói,
một trong những nhóm đó là tu viện Thánh Phanxicô ở tỉnh Cincinnati, tiểu bang
Chio.
Mỗi ngày bánh mì kẹp thịt được phân phát
cho hàng trăm người đói, đàn ông, đàn bà đứng xếp hàng đợi đến 5 giờ chiều để
được phát bánh. Cả ngày, hai thầy dòng Phanxicô và năm, bảy người giáo dân trợ
giúp, làm bánh mì kẹp thịt và gói lại.
Một tu sĩ sau khi chứng kiến thái độ của
những người nói trên đã chia sẻ như sau:
“Nhìn những người sa cơ lỡ vận ấy nhận
bữa ăn tạm, tôi thấy nhiều người sau khi nhận gói bánh đã mỉm cười và cám ơn; Có
người thì mắc cở, giật lấy gói bánh rồi lẩn mất; Có người mở gói bánh ra và ăn
liền rồi vội vàng bỏ đi; Có người cầm lấy gói bánh đi vào một ngõ hẻm. Tuy
nhiên cũng có một vài người mở gói bánh ra, ăn thịt và ném bánh đi. Một vài
người ăn một phần và bỏ phần còn lại. Nhiều người bỏ gói bánh vào thùng rác,
nhưng một số khác lại xả bừa bãi trên đường. Một vài người làm dấu thánh giá”.
Cách thức những người bất hạnh nói trên đến
xin ăn, phần nào giống như cách đám đông nghe lời Chúa Giê-su giảng về bí tích
Thánh Thể trong Tin Mừng hôm nay: Họ lầu bầu phản đối và bỏ đi. Còn các tín hữu
chúng ta cần có thái độ thế nào khi tham dự bàn tiệc Thánh Thể?
5) Thái
độ phải có khi tham dự bàn tiệc Thánh Thể:
Mỗi lần tham
dự thánh lễ và rước lễ là
chúng ta sẽ cảm nếm được
hương vị hạnh phúc thiên đàng, sẽ
được nghỉ ngơi
trong an bình như lời Chúa Giê-su hứa: “Tất cả những
ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi
dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng
hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì
ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng." (Mt 11,28-30). Hơn nữa, người ăn Bánh Thánh
Thể hôm nay còn nhận được mầm
sống để sẽ được sống lại trong ngày tận thế sau này.
Sau
khi lãnh nhận Bánh Thánh Thể, chúng ta có bổn phận chia sẻ Chúa cho tha nhân để
giới thiệu Chúa là Tình Thương, và khiêm tốn phục vụ Chúa hiện thân nơi người
nghèo đói bệnh tật và đau khổ, hầu chia sẻ niềm vui ơn cứu độ của Chúa cho họ.
5. NGUYỆN CẦU
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Mỗi lần dự lễ là
chúng con được tham dự bữa tiệc Thánh với hai của ăn là Lời
Chúa và Mình Thánh Chúa. Khi
rước lễ là chúng con được đón nhận cả nhân tính và thần tính
của Chúa. Xin giúp chúng con siêng năng dự lễ mỗi ngày để được Lời Chúa giáo
huấn và được Mình Chúa dưỡng nuôi. Xin cho chúng con biết mở rộng vòng tay
đón nhận mọi người đang sống chung cùng một mái nhà, đang
ở chung cùng một
khu xóm, đang
học
chung cùng một
mái trường, đang
làm
việc chung trong
một cơ quan hay nhà máy... Xin cho chúng con mở lòng đón nhận những người đối
xử tốt với chúng con và cả những kẻ thù ghét làm hại chúng
con. Xin giúp chúng con ngày một biến đổi nên con thảo của Chúa Cha, nên
môn đệ đích thực của Chúa, và nên anh chị em của mọi người trong đại
gia đình Hội Thánh.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. –Đ) XIN CHÚA
NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM
ĐAN VINH - HHTM