LTS: Con số
tử vong tại Ấn Độ, tính cho đến sáng 30 Tháng Tư đã lên đến
208.313 trong số 18.754.984 trường hợp nhiễm
coronavirus. Tình hình đại dịch tại Ấn Độ đã vượt xa mức độ kinh
hoàng. Ngoài ra, còn có khả năng lây lan qua các quốc gia chung quanh.
Đức Thánh Cha Phanxicô, trong một diễn biến chưa từng có trong lịch sử Giáo Hội
Công Giáo, đã huy động 30 đền thánh Đức Mẹ lớn nhất trên thế giới tham gia vào
một chiến dịch cầu nguyện khẩn thiết cho tình hình nguy ngập tại Ấn Độ và trên
thế giới. Đích thân Đức Thánh Cha đã khai mạc tháng cầu nguyện đặc biệt vào
ngày thứ Bẩy 1 tháng Năm, trước ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, đặt ở phía trên bàn
thờ Thánh Leone, tại nhà nguyện Thánh Giáo Hoàng Grêgôriô, bên trong Đền Thờ
Thánh Phêrô.
Để hưởng ứng
lời kêu gọi của vị Cha chung, chúng tôi một lần nữa phổ biến bài viết về Kinh
Mân Côi sau đây với hy vọng được nhiều người cùng hiểu biết giá trị của kinh
này, đặc biệt tham gia vào việc lần hạt sốt sắng trong tháng Hoa để cứu gia
đình, người thân, và thế giới trong cơn đại dịch đầy kinh hoàng này.
KINH MÂN CÔI
Trần Mỹ Duyệt
“Nếu Phanxicô
muốn lên thiên đàng, thì phải siêng năng lần hạt”. Ðọc và suy ngắm Kinh Mân Côi
cách sốt sắng là cầu nguyện. Và hôm nay, Phanxicô đã về trời và đã được tuyên
phong hiển thánh vì đã thực hành theo lời khuyên của Đức Mẹ.
Ngày 13 tháng 7
năm 1917, tại Fatima, Ðức Mẹ đã hiện ra lần thứ ba với Lucia, Giaxinta, và Phanxicô,
cho ba em nhìn thấy hỏa ngục và những hình phạt mà các linh hồn phải chịu trong
đó. Lucia đã hỏi Ðức Mẹ về số phận của mình, của hai em Phanxicô và Giaxinta.
Ðức Mẹ đã cho biết đối với Phanxicô, nếu muốn lên thiên đàng thì em phải siêng
năng lần hạt.
Không thấy Ðức
Mẹ nói lý do tại sao lại đòi Phanxicô phải lần hạt nhiều. Nhưng có thể hiểu một
cách đơn sơ rằng, đối với Phanxicô lần hạt nhiều có nghĩa là cầu nguyện nhiều,
bởi vì việc lần hạt Mân Côi không vượt quá khả năng một em nhỏ như Phanxicô.
Đối với Phanxicô lần hạt chính là một hình thức cầu nguyện.
Với mỗi Kitô
hữu hôm nay, nếu có hỏi Ðức Mẹ một câu tương tự về số phận đời đời của mình như
Ba Trẻ Fatima xưa: “Còn số phận con thì sao?”, chắc chắn cũng sẽ được nghe Ðức
Mẹ trả lời: “Nếu muốn lên Thiên Ðàng, con phải năng lần hạt”.
KINH NHẬT TỤNG
NGƯỜI KITÔ HỮU
Như các linh
mục và các thầy phó tế đã lãnh chức thánh, như các tu sĩ thuộc các dòng tu,
thường ngày đọc kinh Nhật Tụng để đại diện cho Giáo Hội dâng lời ca ngợi Thiên
Chúa, người tín hữu giáo dân mỗi ngày cũng dùng lời kinh nguyện của mình ca
tụng Thiên Chúa. Kinh nguyện đó là Kinh Mân Côi. Là Lectio Divina của các Kitô
hữu.
Trong tinh thần
kinh nguyện, Kinh Mân Côi trở thành Kinh Nhật Tụng của người tín hữu. Trong bộ
kinh này, ta có dịp đọc lên những lời chúc tụng thánh danh Thiên Chúa, cầu xin
một cách đẹp lòng Ngài trong Kinh Lạy Cha - kinh nguyện duy nhất mà Chúa Cứu
Thế đã dậy khi còn tại thế. Chúc tụng Mẹ Maria thánh đức bằng những lời Tổng
Thần Gabrien, Thiên sứ của Thiên Chúa đã chào mừng Ðức Mẹ. Những lời ngợi khen
của Thánh Isave, và lời cầu xin của ta dâng lên Mẹ với ý thức về sự yếu hèn của
chính mình. Sau cùng là lời ca ngợi vinh quang Ba Ngôi Thiên Chúa từ muôn thuở
và cho đến muôn đời.
Tóm lại, khi
suy nguyện chuỗi Mân Côi với ý nghĩa của Kinh Lạy Cha, Kinh Kính Mừng, và Kinh
Sáng Danh, ta không thể không cảm thấy ngợp trời ánh sáng, vinh quang và vui
mừng vì được chúc tụng Thiên Chúa chí tôn, đầy tình thương. Ca ngợi Mẹ Maria,
người Mẹ diễm phúc, luôn thương xót và cầu bầu cho chúng ta. Trên tất cả, tình
thương và phúc lộc đó qui về vinh quang một Thiên Chúa là Cha, và cho phần rỗi
của con cái Ngài.
Một bộ kinh như
thế, chắc chắn không còn bộ kinh nào đẹp đẽ hơn, xứng đáng hơn để ta dâng lên
Thiên Chúa. Do đó, Kinh Mân Côi được coi là nhật tụng thần lương (Lectio
Divina) của mọi Kitô hữu. Những tâm hồn đạo đức, những thánh nhân kim cổ trong
lịch sử Giáo Hội đều có lòng yêu mến Ðức Mẹ, hoặc sùng mộ những Mầu Nhiệm ẩn
chứa trong việc lần hạt Mân Côi.
Bênađô, vị
thánh thời danh của Ðức Mẹ có thói quen dùng lời chào của Tổng Thần Gabrien để
chào mừng Ðức Mẹ. Mỗi lần khi đi qua tượng ảnh Mẹ tại tu viện, Bênađô cúi đầu
và nói: “Ave Maria” - kính chào Maria. Cảm khích về lời chào và tấm lòng yêu
mến đó, một hôm sau khi Bênađô vừa chào mừng Ðức Mẹ, liền được nghe Ðức Mẹ chào
lại: “Ave Bernard” - chào Bênađô. Vì lòng sốt sắng mến yêu luôn thôi thúc trong
lòng thánh nhân, ngài được cho là đã thêm vào cuối kinh Lạy Nữ Vương những lời
này: “Ôi khoan thay! nhân thay! dịu thay! Thánh Maria trọn đời đồng trinh”.
Thánh Anphongsô
Giám Mục Tiến Sĩ và sáng lập Dòng Chúa Cứu Thế đã viết nhiều về Ðức Mẹ, đặc
biệt là tác phẩm Vinh Quang Ðức Mẹ, trong đó thánh nhân đã diễn tả cách rất đầy
đủ về những vinh quang qua 12 nhân đức của Ðức Mẹ.
Thánh Ludovico
Maria Grignon di Montfort đã hô hào lòng sùng kính và tận hiến cho Ðức Mẹ.
Thánh Ðaminh,
người tiên phong cổ võ việc lần hạt Mân Côi. Nhờ Ngài sốt sắng rao truyền việc
lần hạt, đã chiến thắng được lạc giáo Albigense tung hoành và gieo rắc bao tai
họa cho Giáo Hội tại nước Pháp thời của Ngài.
Trong khi rao
giảng phép lần hạt Mân Côi tại tỉnh Carcasso, một hôm có một người đã đả kích
Thánh Ðaminh về việc đạo đức này. Anh ta đã bị quỉ nhập, và Thánh Ðaminh đã cầu
nguyện để trừ quỉ ra khỏi người anh. Trước khi ra khỏi, chính quỉ dữ đã phải
thú nhận và thốt lên những lời này:
“Hỡi mọi người,
hãy nghe đây: Ðức Trinh Nữ Maria rất thánh là Mẹ Thiên Chúa. Người có đủ quyền
năng gìn giữ mọi người khỏi lửa hỏa ngục. Ai có lòng sùng kính Người, sẽ thoát
khỏi tay chúng ta. Nếu chẳng có Người, thì nhiều linh hồn đã phải trầm luân hỏa
ngục. Người yêu thương và phù hộ cho những ai siêng năng lần hạt Mân Côi”.
Nhờ sự hô hào
và lòng sốt sắng đối với Kinh Mân Côi của Thánh Giáo Hoàng Piô V, Giáo Hội dưới
triều đại Ngài đã chiến thắng đạo quân Hồi Giáo tại vịnh Lépante.
Thánh Giáo
Hoàng Gioan Phaolô II cũng đã làm gương về lòng yêu mến Ðức Mẹ qua việc lần hạt
Mân Côi. Ngài luôn luôn có tràng hạt trong người. Lần hạt riêng và lần hạt chung
với con cái bốn phương. Lòng sùng mộ và yêu mến Mẹ Maria đã thôi thúc Ngài chạy
lại bên Mẹ như một trẻ thơ. “Totus tuus”.
Ngày 13 tháng 5
năm 1981, Ngài đã được cứu thoát một cách nhiệm mầu khi bị ám sát tại quảng
trường Thánh Phêrô. Ngài thâm tín rằng trong biến cố đó, mạng sống Ngài được
duy trì là do bàn tay của Ðức Mẹ. Và Ngài đã bày tỏ lòng biết ơn Ðức Mẹ bằng
cuộc hành hương Fatima một năm sau, vào ngày 13 tháng 5 năm 1982. Trên mũ triều
thiên của Ðức Mẹ Fatima, giữa những viên kim cương lóng lánh, là một đầu đạn mà
kẻ ám sát đã bắn vào vị Giáo Hoàng, như dấu chứng hùng hồn về sự săn sóc và yêu
thương đặc biệt của Ðức Mẹ dành cho Ngài. Ta hãy nghe lời của Ngài trong Tông
Huấn Sứ Ðiệp Mục Vụ Các Gia Ðình: “Cha mời gọi tất cả hãy lần hạt Mân Côi, đường
lối thiết yếu nuôi dưỡng sự tăng trưởng thiêng liêng cho cá nhân và sự thông
hiệp yêu thương cho gia đình” (tr.28).
Ngày 16 tháng
10 năm 2002, bắt đầu năm thứ 25 Giáo Triều của Ngài, Ngài đã ban hành Tông Thư
Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria, một tài liệu rất đặc biệt hô hào mọi người hãy yêu
mến và sốt sắng lần hạt Mân Côi. Ngay trong phần nhập đề, Ngài đã viết:
“Kinh Mân Côi
của Trinh Nữ Maria, một kinh đã từ từ thành hình trong thiên niên kỷ thứ hai
theo sự hướng dẫn của Thần Linh Thiên Chúa, là một kinh được rất nhiều vị thánh
mến chuộng cũng như được Giáo Quyền khuyến khích. Tuy đơn giản, nhưng sâu xa,
kinh nguyện này vào đầu thiên niên kỷ thứ ba đây, vẫn là một kinh nguyện có tầm
vóc quan trọng trong việc mang lại một mùa gặt thánh đức”.
Cũng trong phần
mở đầu của Tông Thư, Ngài viết tiếp:
“Mặc dù rõ ràng
mang đặc tính Thánh Mẫu, Kinh Mân Côi tự bản chất là một kinh nguyện có trọng
tâm là Chúa Kitô. Qua những yếu tố bình dị của nó, Kinh Mân Côi chất chứa tất
cả những gì sâu xa của toàn thể sứ điệp Phúc Âm. Có thể nói rằng Kinh Mân Côi
là một tổng hợp của Phúc Âm”.
Ngoài ra, qua
Tông Thư này, Ngài đã thêm vào năm mầu nhiệm mới mà Ngài gọi là những Mầu Nhiệm
Ánh Sáng, nhấn mạnh đến Chúa Kitô là ánh sáng của thế gian.
20 MẦU NHIỆM
MÂN CÔI
Khi lần hạt,
như đã trình bày trên, ngoài việc đọc và suy ngắm ý nghĩa của từng lời kinh, ta
còn có dịp đi sâu vào những mầu nhiệm tình thương và sự thánh thiện của Ba Ngôi
Thiên Chúa, cũng như vinh quang của Ðức Trinh Nữ Maria.
Trước hết, qua
Mầu Nhiệm Nhập Thể, ta hân hoan về Ơn Cứu Chuộc đã được ban cho nhân loại qua
Ðức Giêsu Kitô. Suy niệm về cuộc hành trình bác ái của Ðức Maria, khi vượt đồi
núi Giuđêa đến viếng thăm chị họ Isave. Cảm nghiệm tình thương bao la của Thiên
Chúa Nhập Thể qua hình hài con trẻ nằm rét run trong hang bò lừa tại đồng quê
Belem. Học hỏi đức khiêm nhường và tuân phục của Ðức Maria và Thánh Giuse khi
lên Giêrusalem dâng Ðức Kitô cho Thiên Chúa. Sau đó, vui mừng với Hai Ðấng khi
tìm lại được Giêsu sau ba ngày lạc mất.
Nhưng khi con
người bị đau khổ, bị thử thách mới biết tình Chúa thương yêu như thế nào. Mới
hiểu tại sao Ðức Kitô lại đau khổ, đổ mồ hôi hòa máu trong vườn Cây Dầu. Tại
sao Ngài để người ta đánh đòn, xỉ vả Ngài. Tại sao Ngài cam tâm chịu nhục hình
trước mặt bọn người tội lỗi. Tại sao Ngài vác thập giá. Và nhất là tại sao Ngài
lại chịu chết treo trên thập giá.
Suy ngắm những
chặng đường đau khổ của Ðức Kitô từ vườn Cây Dầu đến núi Sọ, ta sẽ hiểu thế nào
là tình thương yêu của Thiên Chúa. Thế nào là ác quả của tội lỗi. Thế nào là sự
cao quí của linh hồn.
Sau khi cùng
chia vui, xẻ sầu với Ðức Kitô qua các ngả đường trần gian, trong ơn gọi và cuộc
sống của mình, nhờ suy ngắm, mỗi Kitô hữu sẽ tìm được nguồn vui thiêng liêng
khi nghĩ về cuộc phục sinh vinh quang của Ngài. Nhớ về Thiên Ðàng khi nhìn ngắm
Ðức Kitô về trời, vì Ngài về trời là để dọn chỗ cho mỗi người chúng ta: “Thầy
đi để dọn chỗ cho các con” (Jn 14:2). Ngày Mẹ Maria được Thiên Chúa rước về
trời và phong làm Nữ Vương trời đất.
Chúa Giêsu là
“ánh sáng thế gian” (Jn 8:12). Ánh Sáng đã xuất hiện như ngọn đuốc dẫn đàng cho
nhân loại tìm về cõi phúc trường sinh giữa đêm trường trần gian mù mịt, khi
Ngài xuất hiện lãnh nhận việc thanh tẩy từ tay Gioan Tẩy Giả trên sông Giođan.
Khi Ngài tham dự tiệc cưới ở Canna với các môn đệ. Khi Ngài kêu gọi mọi người
“xám hối” và “tin vào Tin Mừng”. Khi Ngài hiển lộ sáng láng trên núi Taborê. Và
khi Ngài thiết lập bí tích Thánh Thể.
Tóm lại, 20 Mầu
Nhiệm Mân Côi chính là 20 quãng đường của mọi người chúng ta phải đi, phải chấp
nhận vì tình mến như Chúa Giêsu, như Mẹ Maria đã đi và đã chấp nhận. Một giờ
cầu nguyện đơn sơ nhưng với ý nghĩa cao siêu như thế, không phải là một giờ suy
nguyện đẹp lòng Thiên Chúa hay sao? Không phải là một giờ để mình tâm sự và
nghe Chúa tâm sự với mình qua những mầu nhiệm đó sao? Vì khi suy ngắm những mầu
nhiệm đó, ta sẽ được nghe Thiên Chúa nói với ta về cuộc đời của Ðức Kitô, của
Ðức Maria và những gì Ngài muốn ta thực hiện trong đời sống theo gương Hai
Ðấng.
SIÊNG NĂNG LẦN
HẠT
Cũng như Thánh
trẻ Phanxicô, nếu ta muốn đạt tới đích của đời sống, muốn chiếm hữu được vĩnh
cửu, thì chắc chắn phải siêng năng lần hạt. Lần hạt mỗi ngày. Lần hạt một mình.
Lần hạt chung với nhau trong gia đình. Khi một mình trên xe bus. Một mình trên
xe từ nhà tới sở, và từ sở về nhà. Lúc rảnh rỗi hay trên giường bệnh. Khi gặp
những thử thách, đau khổ mà không biết than thở với ai. Nhờ suy ngắm những mầu
nhiệm Mân Côi, ta sẽ biết hy sinh, khiêm nhường, nhẫn nại như Chúa Giêsu và Mẹ
Maria. Ta sẽ hiểu Thiên Chúa muốn mình sống như thế nào.
“Hãy cầu nguyện
để khỏi sa chước cám dỗ” (Mt 26:41). Lời Ðức Kitô nói xưa không có luật trừ cho
bất cứ ai. Nó không phải là một lời có tính cách cảnh giác hay đề phòng, nhưng
là một mệnh lệnh, một điều kiện. Lời Ngài là lời hằng sống, như thánh Phêrô đã
tuyên xưng: “Chúa có lời ban sự sống đời đời” (Jn 6:69). Lời đó nhắc nhở ta
phải luôn tỉnh thức cầu nguyện.
Ðời sống của
con người trên dương thế không phải là một chuỗi ngày dài hạnh phúc, vui tươi,
phấn khởi và thơ mộng như những giấc mơ thần tiên được thêu dệt do trí tưởng
tượng trong các tiểu thuyết. Những câu chuyện như thế chỉ có tác dụng làm quên
đi thực tế của cuộc đời, hơn là giúp ta biết chấp nhận, thánh hóa, và thăng
tiến cuộc đời như Ðức Kitô, như Mẹ Maria, như các thánh nhân đã sống, và đã
thánh hóa.
Ðời sống trần
gian của con người, nếu được trình bày một cách trung thực phải là một tập hợp
giữa vui và buồn, giữa hạnh phúc và bất hạnh, giữa yêu thương và ghen ghét,
giữa bạn hữu và thù nghịch, giữa lương thiện và gian ác. Một cuộc sống mà không
ai có thể nói mình hoàn toàn hạnh phúc, hoặc hoàn toàn bất hạnh. Một cuộc sống
mà trong đó mọi người phải phấn đấu, chấp nhận, và vươn cao giữa những thử
thách, những cám dỗ, và yếu đuối. Trong cuộc sống này, người Kitô hữu không thể
không tìm gặp Thiên Chúa, không thể không cậy trông Ngài, và không thể không
xin Ngài nâng đỡ. Bằng cách nào? Bằng việc sốt sắng suy ngắm và sống các mầu
nhiệm Mân Côi.
Theo Ðức Giáo
Hoàng Piô XII, thì Kinh Mân Côi là một bản tóm lược toàn bộ Tin Mừng. Nhờ suy
ngắm những mầu nhiệm này, Ðức Tin của người Kitô hữu “được nẩy nở thêm” như Ðức
Giáo Hoàng Piô XI đã đề cập trong Thông Ðiệp In Crescentibus Malis (Trước Sự Dữ
Gia Tăng), và Thánh Hoàng Phaolô VI nhắc lại trong Thông Ðiệp Hòa Bình, ban
hành ngày 15 tháng 9 năm 1966.
Lần hạt đối với
Phanxicô là con đường dẫn lên cõi phúc. Ðối với ta cũng thế, lần hạt sẽ giúp
hiểu hơn về Ðức Trinh Nữ Maria, và yêu mến Mẹ hơn. Nhờ tình mến này, Mẹ đưa ta
tiến gần tới Chúa Giêsu Con Chí Thánh của Mẹ.
Lần hạt Mân
Côi, theo linh mục Joanquim Maria Alonso, CMS, nhà biên khảo thời danh về biến
cố Fatima, còn là việc chu toàn một trong ba điều kiện của Ðức Mẹ, đó là: Cải
thiện đời sống, tôn sùng Trái Tim Mẹ, và siêng năng lần hạt.
Linh mục Alonso
còn quả quyết rằng Thánh Ý Thiên Chúa muốn dùng Ðức Trinh Nữ Maria để tỏ lòng
khoan nhân và công trình Cứu Chuộc vô giá của Ðức Kitô cho nhân loại.
Việc cứu rỗi
nhân loại dĩ nhiên thuộc về Ðức Kitô, nhưng do lòng nhân lành vô biên của Ngài,
Thiên Chúa muốn ban cho Mẹ Maria quyền ban phát ơn đó cho nhân loại. Giáo huấn
của Giáo Hội về vai trò trung gian của Ðức Trinh Nữ Maria, đã được Ðức Giáo
Hoàng Lêo XIII quảng diễn trong Thông Ðiệp Jucunda Semper ban hành ngày 8 tháng
9 năm 1894 như sau:
“Thiên Chúa,
theo sự quan phòng rất nhân lành của Ngài đã ban cho nhân loại vị Nữ Trung Gian
này, và đã ấn định rằng tất cả mọi phúc lộc phải qua tay Maria mới đến với
chúng ta”.
(Trích và
hiệu đính từ tác phẩm “Sống Đạo Giữa Đời”, Tủ Sách Vào Đời, 2004. Chương 10,
tr.119-129 của cùng tác giả.)