Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Đinh Văn Tiến Hùng
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm BÙI NINH, Gp Bùi Chu
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  Giáo Sĩ Việt Nam
ƠN THIÊN TRIỆU VÀ NGUYỆN ƯỚC TRUNG THÀNH


Giuse Phan Quang Trí, O.Carm.

Rôma, 24.04.2021

Ngày Chúa Nhật IV mùa Phục Sinh năm 1964, Thánh Giáo Hoàng Phaolo VI đã chính thức cử hành ngày thế giới cầu cho ơn thiên triệu lần thứ Nhất. Kể từ đó đến nay, mỗi khi Giáo Hội cử hành lễ Chúa Chiên Nhân Lành là mỗi lần dân thánh Chúa được nhắc nhớ để nâng cao ý thức về tầm quan trọng và sứ mạng đặc biệt của ơn thiên triệu trong đời sống của Hội Thánh. Thánh Giáo Hoàng mời gọi chúng ta không chỉ “xin Chủ mùa gặt sai thêm nhiều thợ gặt” (x. Mt 9, 38) mà còn phải biết cầu nguyện để hàng linh mục và tu sĩ trong Hội Thánh được ơn sắt son “trung thành bước theo chân Chúa Giêsu,” vị Mục Tử Nhân Lành tối cao.[1]  

Thực ra, khi lãnh nhận Bí Tích Thanh Tẩy, mỗi Kitô Hữu đều thực sự là đối tượng của ơn Chúa kêu gọi và đều lãnh nhận cùng một sứ mạng từ Thiên Chúa; “hãy đi và loan báo Tin Mừng” (x. Mt 28, 19). Chính vì thế mà mọi phần tử của Hội Thánh bất kể là giáo sĩ, tu sĩ hay giáo dân, ai cũng cần phải sống trung thành với ơn gọi của mình. Hôm nay, nhân ngày chúng ta cầu nguyện đặc biệt cho các mục tử và tu sĩ của Hội Thánh, chúng ta cùng tìm hiểu về ý nghĩa và “sức nặng” chất chứa trong lời cam kết trung thành của bậc sống tu sĩ và giáo sĩ. Qua đó chúng ta nhận ra lý do tại sao xưa nay, nhiều cơ sở huấn luyện chủng sinh và tu sĩ vẫn hay nhận Thánh Giuse làm thánh bảo trợ. 

1. Trung thành theo đuổi “đức ái trọn hảo”

Giáo huấn của Công Đồng Vaticanô II về bậc sống tu trì và ơn gọi thánh hiến là nguồn tài liệu phong phú cho phép chúng ta hiểu được những chiều kích chính yếu của ơn gọi thánh hiến. Theo đó, ngay từ buổi sơ khai, Giáo Hội “đã có những người nam cũng như nữ, qua việc thực hành các lời khuyên Phúc Âm, quyết tự nguyện theo gương Chúa Kitô với một tinh thần tự do thanh thoát, bắt chước Người cách trung thành hơn, và mỗi người một cách, tất cả đều sống tận hiến cho Thiên Chúa.”[2] Nếu như ơn gọi tu trì hay “việc theo đuổi đức ái trọn hảo qua các lời khuyên Phúc Âm là công cuộc bắt nguồn từ giáo huấn và gương sáng của Thầy Chí Thánh”[3] thì chúng ta có thể suy ra hai điều sau đây: 1/ Các hình thức tu trì thánh hiến trong Hội Thánh tuy phong phú nhưng đều diễn tả chung một thực tại: đó là cách thế con người đáp lại lời mời gọi “hãy theo Thầy” của Chúa Giêsu. 2/ Nhiệt huyết tông đồ dâng hiến cần phải được thường xuyên làm mới lại và quá trình canh tân này phải bắt nguồn từ Đức Kitô, trong Đức Kitô và nhờ Đức Kitô dưới sự sự tác động của Chúa Thánh Thần.

Quả thế, kể từ những hình thức tu trì lâu đời nhất cho đến các cộng đoàn dòng tu mới thành lập gần đây, ơn gọi thánh hiến luôn duy trì ít là hai đặc điểm sau đây, một là “tâm tình tự nguyện hiến dâng để thuộc trọn về Chúa”, hai là “khao khát tháp nhập bản thân vào mẫu gương vâng phục, khiết tịnh và khó nghèo của Đức Giêsu Kitô.” Chính vì vậy mà “lòng trung thành” và “đức mến trọn hảo” được xem là hai giá trị cốt lõi làm nên nét đẹp riêng biệt của ơn thiên triệu. Để hiểu đúng giá trị của lòng trung thành trong ơn gọi thánh hiến, chúng ta hãy bắt đầu từ thao thức và cảm nghiệm của những nhân vật Thánh Kinh, những người đã từng được Thiên Chúa kêu gọi trước nhất.

2. “Trung Thành” theo Chúa như các tổ phụ

Trong Kinh Thánh Cựu Ước, chúng ta nhận thấy các tổ phụ như Abraham, Isaác, Môsê, rồi cả các ngôn sứ Isaia, Hôsê, Giêrêmia, Êlia, và các thủ lãnh tiêu biểu dân Israel xưa, tất cả đều giống nhau ở điểm; họ đã được Thiên Chúa kêu mời, tuyển chọn và trao phó sứ mạng. Ngẫm về ơn gọi của các vị Tổ Phụ và Ngôn Sứ lớn, chúng ta nhận thấy “theo Chúa” chính là “trung thành với đường lối của Chúa” và “quyết tâm phụng sự chỉ một mình Chúa mà thôi” (x. 1Vua 14, 8; 18, 21; Gr 2, 2; Hs 11, 1; 2 Sm 15, 13; Tv 81, 2).[4] Đến thời Tân Ước, cụm từ “kiếm tìm Tôn Nhan Thiên Chúa” không chỉ được hiểu một cách đơn giản là “giữ giới luật” nữa mà còn được mặc thêm một số ý nghĩa mới khiến cho lối nói này thêm sinh động và biểu cảm.

Trong Giao Uớc Mới, Thiên Chúa vô hình của thời Cựu Ước từ nay xuất hiện hữu hình nơi Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể, Đấng có xương có thịt hữu hình và cư ngụ giữa nhân loại chúng ta. Do đó “khao khát Thiên Chúa” từ là một ước nguyện hoàn toàn siêu nhiên trừu tượng trở nên một lối sống gắn liền với những thực hành và những lựa chọn vô cùng xác thực. “Theo Chúa” hay “lựa chọn đường lối của Chúa” chính là “thi hành những gì Con Chúa nêu gương, vì ý muốn và kế hoạch thâm sâu của Thiên Chúa Cha đã được “mặc khải” cách rõ ràng và chính xác nhất nơi Đức Giêsu Kitô, “hình ảnh tuyệt hảo của Thiên Chúa Cha vô hình” (x. Ga 14, 9). Như vậy, “theo Chúa” trong nhãn quan Tân Ước là “trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu Kitô” (Rm 8, 29).[5]

Kinh Thánh Tân Ước ghi nhận nhiều lối nói khác nhau về hành vi đáp trả của con người trước lời mời gọi “Hãy theo Thầy” của Chúa Giêsu. Thông thường, “đứng dậy và đi theo” là hai hành động rõ ràng và cụ thể nhất mà các tác giả Tân Ước hay sử dụng. Chẳng hạn như Simon, Anrê, Giacôbê và Gioan, những môn đệ đầu tiên được Chúa gọi, họ đã bỏ mọi sự lại phía sau để “đi theo” Người (Mc 1, 16-20; Mt 4, 18-22; Lc 5, 1-11). Ở những đoạn khác trong Tin Mừng Nhất Lãm, động từ “đi theo” và danh từ “kẻ đi theo” được hiểu như là hành động của “môn đệ”, “môn sinh” hay “học trò”. Khi ấy, “theo Thầy” ngoài nghĩa cụ thể là “đi theo” trên phương diện thể lý còn có nghĩa ẩn dụ là “theo” cả trong tinh thần. Thánh Gioan, Người Môn đệ Chúa yêu, là người đã gắn thêm cho hành động “theo Thầy” một ý nghĩa khác thâm sâu hơn những gì chúng ta đã nhắc đến. Theo Thánh Gioan, ơn gọi “môn đệ” vô cùng cao quý vì chỉ có môn sinh mới có vinh dự được thông chia số phận của thầy mình (x. Ga 12, 26; 13, 36-37; Kh 14, 4). Ơn gọi theo Chúa chính vì thế đòi buộc người môn đệ trước là phải “tin”, sau là phải biết “phó thác” cho đấng họ muốn theo (x. Ga 8, 12; 10, 4).

Tắt một lời, người môn đệ đi theo Chúa không chỉ đơn thuần là Chúa bước đi trước, môn đệ nối gót theo sau. “Theo Chúa” thực thụ đồng nghĩa với việc noi gương bắt chước, uốn mình theo khuôn vàng thước ngọc là cuộc đời và sứ mạng của Chúa Giêsu Kitô.[6] Chúa Giêsu đã nêu gương vâng phục và yêu mến Thiên Chúa Cha thế nào thì người môn đệ cũng phải biết vâng phục và yêu mến y như vậy. Thật không dễ dàng chút nào.

3. “Trung Thành” trong Ơn Gọi Thánh Hiến

Hiến Chế Lumen Gentium - Ánh Sáng Muôn Dân, cẩn thận chỉ ra rằng “mến Chúa yêu người là dấu hiệu xác nhận người môn đệ đích thực của Đức Kitô.”[7] Các môn đệ là những người luôn noi gương cũng như làm chứng cho tình yêu và sự khiêm nhường của Đức Kitô, họ cố gắng thực thi những điều Chúa khuyên dạy. “Trong những lời khuyên ấy, phải kể đến tặng phẩm cao quý của ân sủng được Chúa Cha ban cho một số người (x. Mt 19, 11; 1 Cr 7, 7) để họ có thể dễ dàng tận hiến cho một mình Thiên Chúa với một con tim không phân chia trong đời sống khiết tịnh hay độc thân (x. 1 Cr 7, 32-34).”[8]

Điểm độc đáo của bậc tu trì thánh hiến, theo Công Đồng Vaticanô II, hệ tại việc các tu sĩ không những noi theo một cách chính xác “nếp sống mà Con Thiên Chúa đã đón nhận khi Người xuống thế để thi hành thánh ý Chúa Cha” mà còn thực hiện việc “noi gương” đó một cách liên lỉ giữa lòng Hội Thánh.[9] Sức nặng và cũng là giá trị cao quý của đời tu hệ tại việc “liên lỉ noi gương”. Quả vậy, khi nói về ơn gọi thánh hiến, Thánh Công Đồng quả quyết nhân đức trung thành của người tu sĩ chính là “kho tàng quý giá” và ghi nhận rằng: “bằng sự kiên trì và khiêm tốn trung thành với hồng ân thánh hiến và bằng thái độ quảng đại phục vụ mọi người dưới nhiều hình thức khác nhau” tu sĩ là những người góp phần điểm trang cho Hội Thánh, Hiền Thê Đức Kitô ngày thêm thêm rạng rỡ đẹp xinh.[10]

Dựa trên nền tảng Thánh Kinh, giáo huấn Công Đồng Vaticanô II khẳng định với chúng ta rằng “trung thành bước theo Chúa Kitô” là “tiêu chuẩn tối hậu của đời sống tu trì thánh hiến.”[11] Và như thế, mọi tu sĩ, nam cũng như nữ, thuộc bất kể hình thức tu trì hay thế hệ nào đi nữa, đều là những người được kêu gọi và tuyển chọn để bước theo Chúa Kitô cách triệt để và noi gương Người cách trung thành nhất.[12]

4. “Trung Thành” như Thánh Giuse

Nơi Thánh Cả Giuse, Bạn Trăm Năm của đức Trinh Nữ Maria và cũng là Dưỡng Phụ của Đấng Cứu Thế, chúng ta nhận ra một mẫu gương tuyệt hảo về nhân đức “trung thành”. Tuy Kinh Thánh không ghi lại bất cứ một lời giảng dạy nào thốt ra từ miệng Thánh Giuse nhưng tính cách khiêm hạ, thái độ vâng phục và đời sống nội tâm sâu sắc của người lại làm nên mẫu hình lý tưởng mà bất cứ phàm nhân nào muốn theo Chúa đều có thể học hỏi. Cuộc đời Thánh Giuse chứa đựng bí quyết giúp chúng ta trở nên “đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu Kitô” (x. Rm 8:29).  

Xuất thân từ dòng dõi Vua Đavit cao sang quyền quý nhưng Thánh Giuse lại chọn nếp sống thanh bần giản dị. Ngài không những trân trọng giá trị của lao động chân tay mà chính bản thân ngài cũng từng “đổ mồ hôi sôi nước mắt” nuôi sống bản thân và gia đình. Biết bao nhiêu vị Giáo Hoàng đã từng long trọng tuyên dương phẩm chất âm thầm khiêm tốn của Thánh Cả Giuse và vinh danh ngài như mẫu gương của giới lao động bình dân, của những người giúp thăng tiến các giá trị con người thông qua sức lao động chân chính của họ.[13] Thánh Giuse là mẫu mực cho những người khiêm hạ mà Kitô giáo nâng lên những địa vị cao sang; ngài “là bằng chứng cho thấy rằng để trở thành một môn đệ tốt và chân chính nối gót Chúa Kitô, không cần đến những điều vĩ đại – chỉ cần các nhân đức thông thường, đơn sơ và nhân bản, nhưng phải là những nhân đức đúng nghĩa và chân thực.”[14] Nếu khiêm nhu, nhân hậu, hiền hòa, nhẫn nại được xem là đặc tính riêng của dân thánh Chúa, của những người “được Thiên Chúa tuyển chọn, hiến thánh và yêu thương” (Cl 3:12) thì Thánh Giuse hội đủ mọi điều kiện để được xem là mẫu gương cho dân thánh Chúa, nhất là cho những ai muốn trở nên môn đệ đích thực của Đức Kitô.

Thánh Giuse đích thực là mẫu gương cho chúng ta về đức vâng phục. Trong tất cả các câu chuyện Thánh Kinh liên quan đến Thánh Giuse, kể từ lúc ngài xuất hiện cho đến khi âm thầm rút lui, không một tình huống nào là êm ả thuận lợi: Từ việc ngài đón nhận tin Maria người vợ sắp cưới đang mang thai bởi quyền phép Chúa Thánh Thần (x. Lc 2:1-7; Mt 1:18-25), đến việc vất vả cùng Maria về quê khai sổ bộ (x. Lc 2:1-5); từ việc phải bẽ bàng chịu người đời xua đuổi miệt thị cho đến việc phải một mình giúp đỡ Maria hạ sinh Hài Nhi Giêsu nơi máng cỏ Bêlem (x. Lc 2:6-7); từ việc phải thức dậy trong đêm vội vã đưa Hài Nhi và Mẹ Người lánh sang Ai Cập cho đến khi hồi hương và bỡ ngỡ lập nghiệp nơi thôn làng Nazarét (x. Mt 2:13-23); từ việc đôn đáo chu toàn nghi lễ cắt bì cho con trẻ Giêsu cho đến việc hớt hãi tìm con trong Đền Thờ Giêrusalem (x. Lc 2:21-50), tất cả đều nhuốm mầu giông tố. Trong mọi tình huống, Thánh Giuse không một lời phản kháng kêu ca. Ngài chỉ biết hết lòng vâng phục và chu toàn mọi huấn lệnh Chúa truyền. Gương vâng phục của Thánh Giuse thật đáng để chúng ta nghiêng mình bái phục nhưng đó cũng là lý do khiến cho không ít người phải thắc mắc hoài nghi.         

Trong thời đại mà chủ nghĩa thế tục và chủ nghĩa cá nhân đang hoành hành rộng khắp và thậm chí còn tấn công mạnh mẽ cả vào môi trường nhà tu như hiện nay, thì nhân đức khiêm hạ và thái độ phục tùng dường như chỉ còn là những khái niệm tồn tại trên lý thuyết. Chính vì vậy mà nhiều người, nhất là các bạn trẻ cảm thấy băn khoăn nghi ngại: “Liệu rằng chúng ta có thể bắt trước Thánh Giuse tận trung một lòng vì Chúa hay không?” Nếu có thì đâu là bí quyết? Tông huấn Redemptoris Custos cung cấp cho chúng ta một đáp án khá thuyết phục. Trước hết, chúng ta phải thừa nhận rằng bao trùm lấy tất cả mọi câu chuyện Thánh Kinh liên quan đến Thánh Giuse là một bầu khí thinh lặng nhiệm mầu. Chính sự thinh lặng ấy bộc lộ chân dung nội tâm chiêm niệm của Thánh Giuse.[15] Hàm chứa trong từng “hành động” của ngài là cả “một bầu khí chiêm niệm sâu xa.”[16] “Sự hy sinh hoàn toàn, mà qua đó Thánh Giuse hiến dâng trọn vẹn cuộc sống cho những đòi hỏi của [công trình cứu độ], chỉ có thể hiểu được trong ánh sáng đời sống nội tâm sâu xa của ngài mà thôi. Chính đời sống nội tâm này […] mang đến cho ngài những suy luận và sức mạnh mà chỉ những tâm hồn đơn sơ và trong sáng mới có được. [Đời sống nội tâm ấy cũng giúp ngài đủ sức] chấp nhận các điều kiện, trách nhiệm và gánh nặng của một gia đình, và từ khước tình yêu đôi lứa tự nhiên vốn là nền tảng nuôi dưỡng gia đình để chọn một tình yêu trinh khiết không thể sánh ví.”[17]

Kết: Ước mơ đời tận hiến

Đời sống nội tâm chiêm niệm sâu xa là không gian gặp gỡ nối kết giữa hai trái tim người cha: cha trần thế kín múc sức mạnh và ánh sáng khôn ngoan từ Cha Trên Trời. Nhờ đó, mà Đấng Công Chính biết cách hoàn thành xuất sắc sứ mạng bảo vệ và nuôi lớn Đấng Cứu Thế cho nhân loại chúng ta được hưởng nhờ. Hơn nữa, chính trái tim của Thánh Giuse, patris corde đã truyền tải cảm hứng và ít nhiều tác động đến việc hình thành nên các nét tính cách tuyệt vời nơi con người của Chúa Giêsu. Ngài không chỉ dưỡng dục mà còn góp phần trang bị cho Hài Nhi Giêsu những hành trang cần thiết cho hành trình loan báo Tin Mừng sau này.[18] Thánh Giuse được xem là quan thầy các mầm non thiên triệu vì lẽ ngài thấu hiểu những khó khăn thách đố có thể xảy đến cho các thợ gặt tương lai, và quan trọng hơn là ngài nắm giữa bí quyết giúp họ vượt qua những truân chuyên thử thách đó. Nơi mẫu gương Thánh Giuse chiêm niệm, khiêm tốn và vâng phục, những ai thật sự khao khát nên giống đức Kitô có thể tìm ra bí quyết để biến ước mơ này thành hiện thực. “Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn” (Lc 16: 9). Gương Thánh Giuse đang truyền cảm hứng khích lệ ơn gọi trẻ mạnh dạn tuân theo thánh ý Chúa, sẵn sàng gác lại những dự phóng và mơ ước đời tư để hiến thân phục vụ và kiên quyết trung thành với ơn gọi “môn đệ” trong đời sống thường ngày.[19] 

Bên cạnh đó, Thánh Têrêsa Avila nhà thần bí Dòng Cát Minh đã quả quyết rằng khiêm nhường là nền tảng của mọi nhân đức.[20] Một tâm hồn muốn thăng tiến trên đàng nhân đức thì nhất định phải rèn luyện cho được đức khiêm nhượng. Vì thánh Cả Giuse là mẫu gương khiêm hạ và vâng phục nên ngài cũng là bậc thầy của mọi nhân đức. Ngài không chỉ là đấng bảo trợ mà còn là thầy dạy của những ai năng thực hành cầu nguyện.[21] Cha Nuôi Chúa Giêsu vì vậy mà trở nên rất gần gũi với tu sĩ và chủng sinh, những người khám phá ra giá trị của cầu nguyện và chọn lựa cầu nguyện làm sứ vụ trên hết trong hành trình theo Chúa. Không phải nhờ danh xưng nhưng nhờ chứng tá, Thánh Giuse xứng đáng được tuyên dương là bậc thầy mẫu mực có đủ khả năng truyền đạt bí quyết thành công cho những ai muốn dõi bước đi theo Đức Giêsu Kitô. Thợ gặt lành nghề được Chúa sai đi nhất định phải mang theo hành trang là “lòng trung thành trong nguyện cầu và sắt son trong yêu mến” vì chưng Chúa là cây nho và chúng ta là cành, “cành nào kết hiệp cùng cây sẽ trổ sinh hoa trái” (x. Ga 15, 5).



[1] Xem Thông Điệp Radio của Đức Giáo Hoàng Phaolo VI, ngày 21/04/1964, tham khảo bản tiếng Ý http://www.vatican.va/content/paul-vi/it/messages/vocations/documents/hf_p-vi_mes_19640411_i-word-day-for-vocations.html. Truy cập 23/04/2021.

[2] Sắc Lệnh của Công Đồng Vaticanô II về việc thích nghi canh tân đời sống tu trì với nhan đề Perfectae Caritatis, tạm dịch Đức Ái Trọn Hảo, #1.

[3] Xem Sắc Lệnh Perfectae Caritatis, #1 và Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội - Lumen Gentium, #43. Bản dịch của cả hai văn kiện này đều do Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin trực thuộc HĐGMVN thực hiện. Tham khảo http://conggiaovietnam.net/index.php?m=home&v=subject&is=31, truy cập 20/04/2020.

[4] G. Turbessi, O.S.B, “La sequela e l’imitazione di Cristo nella vita religiosa” (Tạm dịch: Dõi Theo và Noi Gương Chúa Kitô trong Đời Tu) trong tập san Vita Religiosa e Concilio Vaticanô II, Tập 1, Rôma: NXB Teresianum, 1966, 47.

[5] Ibid, 48.

[6] Ibid, 49-50.

[7] Công Đồng Vaticanô II, Hiến Chế Tín Lý về Hội Thánh Lumen Gentium (Ánh Sáng Muôn Dân), Thành Vaticanô, 21/11/1964, #42.

[8] Xem Ibid.

[9] Xem Ibid, #44.

[10] Xem Ibid, #46.

[11] Xem Perfectae caritatis, #2a.

[12] Xem Perfectae caritatis, #1.

[13] Giáo huấn của nhiều vị Giáo Hoàng tiền nhiệm đã được đúc kết lại trong Redemptoris Custos (Người Chăm Sóc Đấng Cứu Thế), do ĐGH Gioan Phaolô II ban hành ngày 15/08/1989.

[14] Redemptoris Custos, #24.

[15] Redemptoris Custos, #25.

[16] Ibid.                                                                                  

[17] Ibid, #26.

[18] Xem Michael D. Griffin, OCD ed., Thánh Giuse trong Thiên Niên Kỷ Thứ Ba, Teresian Charism Press, 1999, 355-356.

[19] ĐTC Phanxicô, Sứ Điệp ngày Quốc Tế cầu cho ơn thiên triệu thứ 58 - Thánh Giuse: Ước Mơ của Ơn Gọi, 2021. Tham khảo https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2021-03/su-diep-dtc-phanxico-ngay-the-gioi-cau-nguyen-cho-on-goi.html. Truy cập ngày 22/04/2021.

[20] Xem Têrêsa Giêsu, The Way of Perfection (Đường Hoàn Thiện), 4, 4.

[21] Têrêsa Giêsu, Tự Thuật, Ch. VI, 9 (bản Tiếng Anh do David Lewis dịch từ thủ bản tiếng Tây Ban Nha, Tan Books and Publishers, 1997, trang 37), trích trong Bề Trên Tổng Quyền hai nhánh O.Carm và OCD, Thánh Giuse-Bổn Mạng Dòng Cát Minh: Thư Gửi Đại Gia Đình Cát Minh dịp KN 150 Năm Công Bố Thánh Giuse Bổn Mạng Giáo Hội Hoàn Vũ, 6. Tham khảo https://www.ocarm.org/en/citoc/st-joseph-patron-carmel, truy cập 20/04/2021.

Tác giả:  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!