Ambrose
Doborozsi
Bức tranh “Ngài dẹp yên sóng biển” của Rembrandt Van Rijn
Biển
có sức hấp dẫn đặc biệt đối với trái tim con người. Nó đã chiếm trọn trí
tưởng tượng của con người kể từ
những câu chuyện thần thoại đầu tiên: Odysse, tung tăng trên biển; Aenea [a], bị lòng thù hận của Juno đầy ải, đã băng qua Biển sâu; và chu kỳ
mang tính hủy diệt nhưng vẫn mang lại sự sống của dòng lũ sông Nile, tất cả đều dễ dàng ghi nhớ. Trong
văn học, từ Sử thi Gilgamesh [b] đến Ông
già và biển cả [c], Biển cả là bối cảnh cho những câu chuyện kịch
tính nhất. JRR Tolkein [d],
thông qua nhân vật Legolas, mô tả sức hút của biển vào trái tim anh: [e]
Đến biển,
đến biển! Mòng biển trắng kêu vang,
Gió thổi, bọt trắng bay.
Tây, tây xa, mặt trời tròn đang buông xuống.
Con tàu xám, con tàu xám, bạn có nghe họ gọi,
Tiếng những người đã đi trước tôi?
Tôi sẽ ra đi, tôi sẽ rời khỏi rừng cây đã cưu mang tôi;
Vì những ngày của chúng ta đang kết thúc và những năm tháng của chúng ta đang
thất bại.
Tôi sẽ vượt qua vùng nước rộng cô đơn chèo thuyền.
Những con sóng trên Bờ Cuối đổ xuống, trải dài.
Tiếng nói trong Lạc Đảo mời gọi ngọt ngà … 1
Biển cũng là một trong các hình ảnh xác định trọng tâm
Kinh thánh. Thánh Thần bay lượn trên mặt nước trong sự sáng tạo (Sáng Thế
Ký 1:
2). Thiên Chúa cứu Nôê khỏi trận lụt (Sáng Thế
Ký 6: 1; 8: 22). Quyền trượng của Môisê chia tách Biển
Đỏ, cho phép dân Ítraen đi qua an toàn và giải cứu họ khỏi Ai Cập (Xuất hành 14: 21-22). Sau đó, Hòm
Giao ước cũng chia tách sông Giócđan khi dân Ítraen đến Đất Hứa (Giôsuê
3: 14-17). Khi tác giả Thánh vịnh cầu nguyện, “Ngài hãy thống trị từ biển này qua biển
khác, từ Sông cả cho đến tận cùng cõi đất!” (Thánh vịnh 72: 8) Tân Ước cũng dành cho Biển một vị trí quan trọng trong các trình thuật
về Biển. Sứ vụ của Chúa Giêsu tập trung quanh Biển Galilê. Phaolô băng qua Địa Trung Hải. Và, liên
quan đến ngày tận thế, tác giả của sách Khải Huyền mô tả một “Biển thủy tinh hòa quyện với lửa” bên
dưới ngai vàng của Thiên
Chúa. (Khải huyền 15:
2)
Nếu Biển có nhiều ý nghĩa như vậy, nếu nó có sức hút
sâu lắng và thơ mộng đến thế đối với trái tim con người, thì hình ảnh này có thể
được sử dụng trong việc giảng dạy
như thế nào? Trong một nghiên cứu gần đây về Luca và
Công vụ Tông đồ, chúng tôi đã khám phá ra vô số lời chú giải của các giáo phụ trong các câu chuyện về Biển trong Catena Aurea [f] của Thánh
Tôma Aquinô . Trong tài liệu này, Thánh Tôma Aquinô đã biên soạn rất nhiều câu nói của các tổ phụ
liên quan đến từng câu trong sách Tin Mừng. Tất cả những đoạn Kinh Thánh này đều chứa đựng
những ẩn dụ phong phú và những ý nghĩa loại
suy sâu rộng. Đối với chúng ta, dường
như cách tiếp cận loại suy này có thể
giúp khai thác khía cạnh thần thoại về tầm quan trọng của biển. Mặc dù
nghiên cứu của chúng tôi chỉ
giới hạn trong các câu chuyện trong Luca và Công vụ, nhưng những nhận xét của
các Giáo Phụ về phần Kinh thánh này có thể được sử dụng để
giúp hiểu những phần khác.
Khi người ta đọc Kinh Thánh, phần lớn
cách tiếp cận lịch sử hiện đại liên quan
đến nghĩa đen của nó. Bằng cách nhìn vào loại dụng cụ đánh cá mà các Tông đồ sử dụng, hoặc bằng cách nghiên cứu tàn
tích của Caphácnaum, chúng ta có thể hiểu
sâu hơn về câu chuyện và tìm thấy mối liên hệ chặt chẽ với chính các môn đệ. Nhiều
vị thánh vĩ đại đã khuyến khích việc suy ngẫm về sự chính
xác những chi tiết này, bởi vì nó giúp khơi dậy tình cảm gắn bó bền chặt với
Chúa Giêsu, con người lịch sử do Thiên Chúa sai tới. Một cách tiếp cận ẩn dụ hoặc dụ
ngôn hơn, như cách được các giáo phụ
sử dụng, có thể kết hợp với một nguồn khác để giúp hướng dẫn chúng ta về sự
thánh thiện. Thay vì tiếp cận ở mức
độ thực tế lịch sử, chúng ta có thể nhìn vào hàm ý văn học và trí tưởng tượng của văn bản để tìm hiểu thêm về ý
nghĩa thiêng liêng mà Biển có
được.
Giáo hội
có một lịch sử lâu dài về việc tìm kiếm ẩn dụ và loại suy trong thần học của
mình. Ví dụ, phép rửa tội thường được giải thích bằng cách rút ra từ ý nghĩa ẩn dụ của nước. Giống như nước
mang lại sự sống cho thực vật và động vật, việc gội rửa trong nước của Phép Rửa mang lại sự sống
mới cho Kitô hữu. Giống
như chúng ta làm sạch bằng nước, Phép Rửa tẩy sạch tội lỗi của chúng ta. Và
cũng giống như nỗi sợ chết đuối có thể ám ảnh một thủy thủ, trong phép thánh tẩy, chúng ta chết cho chính mình và mặc lấy
một cuộc sống mới trong Chúa Kitô. Các
Giáo Phụ đã
sử dụng cách tiếp cận loại suy và thiêng
liêng
này để đọc Kinh thánh. Bằng cách xem xét công việc của các Giáo Phụ, chúng ta có thể tìm thấy một khuôn khổ chú giải ẩn dụ vững chắc để giúp hỗ trợ việc đọc
và hiểu các câu chuyện về Biển
trong Kinh Thánh. Việc rao giảng về những câu chuyện này, theo cách này, có thể kết nối các sách Tin Mừng cổ xưa với cuộc sống của người nghe bằng
cách lôi kéo họ vào
điều đó rất sâu sắc.2
Khi
các Giáo Phụ sử dụng biểu tượng, những chi tiết mà từ đó các ngài rút ra ý nghĩa đôi khi có vẻ ngẫu nhiên hoặc tùy ý. Chẳng hạn,
Thánh Grêgôriô Nazianzê coi Biển là đại diện cho người tin Chúa đang bơi
trong sự hiểm nguy của cám dỗ, nhưng
Thánh Augustinô lại mô tả niển như
đi sâu vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Do đó, việc chọn một trích dẫn
từ bài chú giải của Giáo Phụ có
thể nghe không được tự nhiên đối với
khán giả hoặc cộng đoàn. Tuy
nhiên, có một khuôn khổ kết nối giữa những gì hai Giáo Phụ này
nói, và thậm chí hỗ trợ các diễn giải cá nhân của các ngài. Việc tìm kiếm sự thống nhất giữa các phép loại suy khác nhau sẽ cho thấy một khung nhìn rộng hơn. Các Giáo Phụ
sử dụng cấu trúc tường thuật của chính Tin Mừng, một sự phù hợp phong phú với các bản văn
Kinh thánh khác, và một thế giới quan cơ bản, để rút ra các ẩn dụ của chúng.
Biển lần
đầu tiên được nhắc đến trong Luca khi nói
đến mẻ lưới thần kỳ, và
lời gọi của Chúa
Giêsu đối với các môn đệ “Ông Simon
đáp: "Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả.
Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”. Họ đã
làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. Họ làm hiệu
cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã
đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm. Thấy vậy, ông Simon Phêrô sấp mặt dưới
chân Đức Giêsu và nói: "Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi! Quả vậy, thấy mẻ
cá vừa bắt được, ông Simôn và tất cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh
ngạc. Cả hai người con ông
Dêbêđê, là Giacôbê và Gioan, bạn chài với ông Simon, cũng kinh ngạc như vậy. Bấy giờ Đức
Giêsu bảo ông Simon:
"Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta”. Thế là
họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Ngài”. (Luca 5,1-11). Tiếp theo, Biển xuất hiện khi Chúa Kitô dẹp yên sóng Biển “Một ngày nọ, Đức Giêsu xuống thuyền với các
môn đệ. Ngài nói: "Chúng ta sang bên kia hồ đi! " Rồi thầy trò ra
khơi. Đang khi các ngài đi thuyền, thì Đức Giêsu thiếp ngủ. Một trận cuồng
phong ập xuống hồ; các ngài bị ngập nước và lâm nguy. Các môn đệ lại gần đánh
thức Ngài dậy và nói: "Thầy ơi, Thầy! Chúng ta chết mất!" Ngài thức dậy,
ngăm đe sóng gió, sóng gió liền ngừng và biển lặng ngay. Ngài bảo các ông:
"Đức tin anh em ở đâu? " Các ông hoảng sợ, kinh ngạc và nói với nhau:
"Vậy người này là ai mà ra lệnh cho cả sóng gió, và sóng gió phải tuân lệnh?”
(Luca 8: 22-25), và ngay sau đó, trong cuộc trừ binh đoàn quỷ “Lũ quỷ
nài xin Ngài đừng truyền cho chúng rút xuống vực thẳm. Ở đó có một bầy heo khá
đông đang ăn trên núi. Lũ quỷ nài xin Ngài cho phép chúng nhập vào bầy heo kia,
và Ngài cho phép. Lũ quỷ xuất khỏi người đó, nhập vào bầy heo. Cả bầy heo từ
trên sườn núi lao xuống hồ và chết ngộp hết”. (8: 31-33). Sau đó,
không có thêm câu chuyện hoặc dụ ngôn lớn nào liên quan đến Biển trong Tin Mừng
này, ngoài các tài liệu tham khảo nhỏ, chẳng hạn như đức tin có thể dời cây xuống
Biển “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt
cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: "Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển
kia mà mọc", nó cũng sẽvâng lời anh em”. (Luca 17: 6), không như Luca,
sách Tin Mừng theo Máccô 6: 45-52 lưu giữ sự kiện đi trên mặt nước “Lập tức, Đức Giêsu bắt các môn đệ xuống thuyền
qua bờ bên kia về phía thành Bếtxaiđa trước, trong lúc Ngài giải tán đám đông.
Sau khi từ biệt các ông, Ngài lên núi cầu nguyện. Chiều đến, chiếc thuyền đang ở
giữa biển hồ, chỉ còn một mình Ngài ở trên đất. Ngài thấy các ông phải vất vả
chèo chống vì gió ngược, nên vào khoảng canh tư đêm ấy, Ngài đi trên mặt biển
mà đến với các ông và Ngài định vượt các ông. Nhưng khi các ông thấy Ngài đi
trên mặt biển, lại tưởng là ma, thì la lên. Quả thế, tất cả các ông đều nhìn thấy
Ngài và đều hoảng hốt. Lập tức, Ngài bảo các ông: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây,
đừng sợ!” Ngài lên thuyền với các ông, và gió lặng. Các ông cảm thấy bàng hoàng
sửng sốt, vì các ông đã không hiểu ý nghĩa phép lạ bánh hoá nhiều: lòng trí các
ông còn ngu muội!”. Biển không còn là trọng tâm của câu chuyện cho đến
khi có sách Công vụ, trong đó Phaolô đi thuyền đến Pécghê “Từ Paphô, ông Phaolô và các bạn đồng hành vượt biển đến Pécghê miền
Pamphylia” (13:13). Hầu hết các cuộc hành trình trên Biển của Phaolô đều bị
lướt qua. Do đó chuyến đi đầu tiên này và những chuyến đi xa hơn của
Phaolô đến Châu Âu “Xuống tàu ở Trôa,
chúng tôi đi thẳng đến đảo Xamốtrakê, rồi hôm sau đến Napôli” (16:11),
Milêtô “Chúng tôi xuống tàu trước đi
Átxô, là nơi chúng tôi sẽ đón ông Phaolô; ông đã sắp đặt như thế, vì ông tính
đi đường bộ. Khi ông gặp lại chúng tôi ở Átxô, chúng tôi đón ông xuống tàu rồi
đi tới Mitylen. Từ đó chúng tôi vượt biển và hôm sau tới ngang đảo Khiô. Hôm
sau nữa, chúng tôi cặp bến ở đảo Xamốt, rồi ngày kế đó đến Milêtô” (20:
13-16), Giêrusalem “Họ đau đớn nhất vì lời
ông vừa nói là họ sẽ không còn thấy mặt ông nữa. Rồi họ tiễn ông xuống tàu”
(20: 38), “Sau khi từ biệt nhau, chúng
tôi xuống tàu, còn họ thì trở về nhà”. (21: 6), và Rôma “Ba tháng sau, chúng tôi ra khơi trên một chiếc
tàu đã qua mùa đông tại đảo; tàu này của thành Alêxanria và mang huy hiệu hai
thần Điốtcuri”. (28:11) chứa rất ít chi tiết để làm việc. Cho đến nay, câu
chuyện biển quan trọng nhất trong Công vụ là vụ đắm tàu trong khi Phaolô bị
giam trên đường đến Rôma, trong chương 27. Như thế cả Luca 5: 1-11, 8: 22-33,
và Công vụ 27 đã trình bày những câu chuyện phong phú nhất để rút ra những ý
nghĩa từ đó. và vì vậy hầu hết các bình luận được trích dẫn sẽ liên quan đến những
đoạn đó.
Mặt hồ
là điểm phóng lý tưởng. Có ba câu chuyện hoàn toàn khác nhau: một vụ đắm tàu, một mẻ lưới dồi dào và một kết thúc kỳ diệu cho một
cơn bão, nhưng các Giáo Phụ đều tìm thấy một ý nghĩa duy nhất. Liên
quan đến những đoạn văn này, các Giáo Phụ nhìn thấy mặt hồ Giênêsarét và miêu tả nó tượng
trưng cho cuộc chiến đấu với cám dỗ, đối với cá nhân tín hữu, và đối với Giáo hội. Đấng Đáng Kính Bede nhận thấy cơn bão trong cái tên mà Luca đặt cho Biển, “Tuy nhiên, Giênêsarét
là cái tên được đặt cho cái hồ do bản
chất của chính bản thân cái hồ,
(được cho là những con sóng vượt
qua hồ đã tạo ra một làn gió trên mặt
hồ) là cụm từ trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là “tự tạo cho mình một làn gió”. Vì
nước của hồ không ổn
định, nhưng thường xuyên bị khuấy động bởi những cơn gió thổi qua.” 3 Sóng gió này
làm rung chuyển các con thuyền, đe dọa các Tông đồ, những người được coi là đại
diện cho cả Giáo hội nói chung và cá nhân tín hữu. Như Bede giải thích thêm, “Nhưng thực tế là các con thuyền, khi được đổ
đầy, bắt đầu chìm, tức là trở nên nặng nề dưới nước; (chúng không bị chìm, nhưng đang gặp nguy hiểm lớn)
vị Tông đồ giải
thích khi ngài nói, “Trong những ngày cuối cùng, thời kỳ nguy hiểm
sẽ đến; con người sẽ là
người yêu chính bản thân mình,
v.v ... Vì việc chìm
tàu xẩy ra khi con người, do những thói quen xấu xa của mình, đã rơi trở lại cái thế gian mà họ
đã được tuyển chọn nhờ đức tin để thoát khỏi nó”, 4 Bede mô tả nỗi kinh hoàng và đau đớn của
thời kỳ cuối cùng, nhưng cơn bão cũng là
một chiều kích luôn luôn hiện
diện trong cuộc sống của
các Kitô hữu. Khi
ở trên mặt nước của cuộc đời này, con thuyền của chúng ta luôn gặp nguy hiểm
trước sự cám dỗ. Tuy nhiên, các Giáo Phụ
không liệt kê rõ ràng những cám dỗ nào được thể hiện bằng sóng Biển. Grêgôriô Nazianzê đề cập
đến tín hữu “bơi lội trong những cảnh huống luôn thay đổi và những cơn bão cay đắng của
cuộc đời này,” 5 nhưng không có một bình luận của giáo phụ nào được Thánh Tôma Aquinô trích dẫn đề cập đến bất kỳ khổ não hoặc thử thách cụ thể nào. Thay vào đó, sóng và bão thường đại diện cho mọi thứ mà
Satan, bản chất sa ngã của chúng ta và của thế giới vật chất, có thể cản đường ơn cứu độ
của chúng ta.
Nếu thế
gian, xác thịt và ma quỷ có thể làm chao đảo con thuyền của chúng ta, thì đức
tin vào Chúa Kitô là Thiên
Chúa
sẽ là liều thuốc giải độc. Các Giáo Phụ chỉ
ra rõ ràng rằng, trước hết, Chúa Kitô có
quyền năng thần thánh để làm dịu các cơn bão như Thiên Chúa của Cựu Ước đã làm; và thứ hai,
đức tin có thể đưa chúng ta đến bờ bên kia một cách an toàn. Thánh
Cyrilô chỉ ra mối liên hệ giữa việc
Chúa Kitô dẹp yên Biển cả và sự kiểm soát của Thiên Chúa đối với
thiên nhiên, đặc biệt như đã được thảo luận trong Cựu Ước:
Nhưng không thể vì thế mà họ phải chết
trong khi Đấng Toàn năng ở cùng họ. Sau đó, Chúa Kitô một khi đã chỗi dậy, có quyền lực trên
mọi vật, và ngay lập tức dập tắt cơn bão và cơn cuồng phong, cơn bão ngừng lại, và có sự bình yên. Ở đây, Chúa Kitô cho thấy mình là Thiên
Chúa, Đấng mà người ta nói,
"Chúa cai
trị sự cuồng nộ của biển cả: khi sóng nổi lên, Chúa làm cho chúng lặng yên”. Vì
vậy, khi ra khơi, Chúa của chúng ta đã biểu lộ cả hai bản tính trong cùng một con người, khi thấy rằng Ngài, vì là con người, đã ngủ thiếp đi trong tàu, và vì là Thiên
Chúa, nên bằng
lời nói của mình, Ngài đã dẹp yên cơn thịnh nộ của Biển cả.6
Câu đầu
tiên của nhà chú giải Cyrilô thiết
lập mối liên hệ giữa quyền năng của Thiên
Chúa và
những cơn bão trên mặt hồ. Mặc dù
các Tông đồ thực
sự đang gặp nguy cơ bị hủy diệt,
nhưng Chúa Kitô “không thể” không cứu họ, vì Ngài thực sự
là “Thiên Chúa ở
cùng chúng ta”. Chính
sự nhập thể của Chúa Kitô là sự
biểu lộ quyền năng của Thiên Chúa
để cứu các tín hữu của Ngài khỏi những giông tố của cuộc đời. Và,
xa hơn nữa, như Thánh Ambrôsiô dạy, quyền năng cứu độ này tiếp tục được thể hiện
cho các môn đồ của Chúa Kitô ngay cả sau khi Ngài thăng thiên:
Bạn phải nhớ rằng không ai có thể vượt qua
cuộc đời này mà không có cám dỗ, vì cám dỗ là thử thách của đức tin. Do
đó, chúng ta đang phải hứng chịu những cơn bão tố của sự gian ác thiêng
liêng, nhưng với tư cách là
những thủy thủ cảnh giác, chúng ta phải đánh thức người lái tầu, là người
không tuân theo những cơn gió mà chỉ huy chúng,
mặc dù giờ đây người lái tầu không còn ngủ trong giấc ngủ của
chính mình, nhưng chúng ta hãy coi chừng, kẻo vì
giấc ngủ của thân xác chúng
ta, Ngài vẫn như đang ngủ và
nghỉ ngơi đối với chúng ta. Nhưng
họ bị khiển trách một cách đích đáng vì đã kinh sợ, khi Chúa Kitô vẫn hiện diện; vì ai bám chặt vào
Ngài chắc chắn sẽ
không cách nào phải chết. 7
Chúa Giêsu Kitô
tiếp tục canh giữ đàn chiên của Ngài
khi họ chèo thuyền vượt biển cuộc đời, và quyền năng thần linh của Ngài
dẹp yên cơn
bão là đáng tin cậy vô hạn. Như Thánh Ambrôsiô đã chỉ ra, chính sự thiếu niềm tin của chúng ta là điều đáng trách, và là điều
"đáng trách” khi chúng ta không chống chọi nổi với những cơn bão. Như
một dụ ngôn sau này trong Tin Mừng của Thánh
Luca
sẽ mô tả, “Nếu bạn có đức tin như hạt cải,
bạn có thể nói với cây dâu này rằng:
Hãy nhổ rễ lên và xuống dưới Biển mà mọc, nó sẽ vâng lời bạn.” (Luca 17: 6) 8
Các
Giáo Phụ kêu gọi một đức tin cộng đoàn, chứ không chỉ cho niềm tin cá
nhân. Thánh Gioan Kim Khẩu cho rằng
đức tin của Thánh Phaolô
đủ để cứu nhiều người, như ngài giải
thích, “Và đây cũng không phải là một
phép lạ nhỏ, rằng họ [thủy
thủ đoàn] cũng
được cứu nhờ lời Phaolô giải thích nguyên nhân.” 9 Các thủy thủ đã bỏ cuộc, “rốt cuộc chúng tôi mất dần hy vọng được cứu” (Công vụ 27:20) nhưng
Phaolô kêu gọi họ hãy tin tưởng và nói: “Thưa
các bạn, hãy can đảm lên! Tôi
tin tưởng nơi Thiên Chúa: sự việc sẽ xảy ra đúng như lời đã phán với tôi.” (Công vụ
27:25) Phaolô tin chắc rằng Thiên Chúa
sẽ cứu ông và cùng với ông, tất cả những người trong tàu. Trong tất cả những
câu chuyện này, những con thuyền không bao giờ có những vị khách lẻ loi. Thay vào đó, Chúa Giêsu ban cho Phêrô và những người bạn đánh cá của ông một phép lạ, cứu tất cả các môn đệ khỏi một cơn bão, hoặc ban cho Phaolô sự cứu vớt của cả một thủy thủ đoàn.
Bản
thân con tàu hay con thuyền là một trọng tâm khác của các Giáo Phụ. Nói chung, con thuyền được hiểu là đại
diện cho Giáo Hội, mặc
dù theo nghĩa rộng hơn, nó có thể tượng trưng cho các cộng đoàn riêng lẻ bên trong Giáo Hội hoặc theo nghĩa cơ bản nhất của nó, chính
là
vũ trụ. Như Thánh Gioan Kim Khẩu mô tả:
Vì nếu một con tàu không thể gắn kết với
nhau mà không có hoa tiêu, là những
người sáng lập tiế sau đó, thì
làm sao thế giới có thể gắn kết với nhau lâu đến vậy nếu không có ai cai quản đường đi của nó? Và rằng tôi có
thể nói không quá
đáng, giả
sử thế giới là một con tàu; trái đất được đặt bên dưới sống tàu; bầu trời là cánh buồm; con người là hành khách; vực thẳm cận kề là biển. Làm thế nào mà trong suốt một
thời gian dài, không một vụ đắm tàu nào xảy ra? Bây giờ, hãy để một con
tàu ra đi vào một ngày nào đó mà không có hoa tiêu và thủy thủ đoàn, và bạn
sẽ thấy nó đắm ngay
lập tức! Nhưng thế giới, mặc dù tồn tại cách đây năm nghìn năm, và nhiều
hơn nữa, vẫn không phải chịu đựng điều gì như thế. 10
Dựa vào Công vụ 27:30 thì không có gì là rõ ràng, nhưng nó cung cấp thông tin về tầm nhìn của các Giáo Phụ về phép ẩn dụ của con tàu. Con tàu là nơi sinh sống của
con người, những cơn bão của cuộc sống, thực tế vật chất và những cơn thịnh nộ của điều tà ác chống lại con tầu đó. Không thể vượt qua cuộc sống mà không có một con tàu để vượt qua vùng Biển. Trong ví dụ này, trái đất không thể tự
nó tạo ra chính nó, từ đầu
đến cuối, nếu không có một người điều
khiển
xuất sắc, là Thiên Chúa,
đã quan phòng thiết
lập đường đi và liên tục chống lại sự tấn công của thời tiết. Chỉ là một bước ngắn khi so sánh các hành khách với các thành viên của
Giáo hội, và người lái tàu với Chúa
Kitô, với đích đến là bờ bên kia, là
thiên đàng. Như Thánh Giêrônimô nhận
xét, “Thánh Phaolô
và những người đã trói buộc ngài, cùng
nhau chèo thuyền, chịu đựng cùng một cơn bão, cùng nhau trốn vào bờ khi con tàu
bị sóng đánh vỡ,” Cứ cho là đúng
như thế,
con tàu đắm là biểu tượng cho sự phán xét thực sự của Thiên Chúa đối với những người đi qua cuộc đời để hướng về cõi hằng sống. Sự ngay thẳng của Phaolô đã cứu cả thủy thủ
đoàn khỏi chết chìm, và mặc
dù ở trên tàu chỉ là chuyện tạm thời, nhưng cả đoàn đã đến được bờ. Do
đó, Thánh Giêrônimô có thể
áp dụng biểu tượng này cho Giáo hội cách trực
tiếp hơn, và cho mỗi
tín hữu tiếp theo đó, “Bây giờ chúng ta chèo thuyền, vật lộn và chiến
đấu, để cuối cùng chúng ta có thể đến được thiên đàng, được đăng quang và chiến thắng”. 11 Thánh Ambrôsiô đưa ra cách trình bày trực
tiếp nhất về phép loại suy này: “Theo Mátthêu,
con thuyền của Phêrô bị sóng đánh, theo Luca, con thuyền chứa đầy cá, để anh em
có thể hiểu Giáo hội. lúc đầu thì dao động, cuối cùng thì rất dồi dào. Con thuyền giữ được Phêrô thì không bị rung chuyển; Con
thuyền giữ Giuđa bị rung chuyển”. 12 Giáo hội giữ được Phêrô, đặc
biệt là Giáo hội La Mã, được hướng dẫn do lời tuyên xưng đức tin của Phêrô, dao
động trong thời gian ở trên mặt nước. Tuy nhiên, sóng yên biển lặng,
Chúa cung cấp lượng cá dồi dào, tượng trưng cho niềm vui dạt dào trên thiên
đàng sau bao sóng gió của cuộc đời này.
Chỗ sâu của Biển
không phải là một phép loại suy đơn giản, mà thay vào đó nó có ý nghĩa gấp đôi. Trong một số trường hợp,
chỗ sâu ờ
đây hiểu là vực sâu Hỏa ngục,
bị loại bỏ khỏi tình yêu Thiên
Chúa. Điều này được thể hiện rõ ràng trong câu chuyện về người đàn ông bị binh đoàn quỷ ám. Bầy quỷ cầu
xin Chúa Kitô “đừng ra lệnh cho chúng nhào xuống vực sâu,”
nhưng sau đó khi nhập vào
đàn heo, chúng lao “theo sườn núi chênh vênh, xồng xộc nhào xuống
biển, mà chết dưới nước.” 13
Các
Giáo Phụ giải thích điều này là biểu hiện quyền năng của Chúa Kitô: bầy
quỷ
tìm cách thoát khỏi vực thẳm bằng cách nhập vào bầy
heo, nhưng cuối cùng vẫn bị chết chìm trong vực sâu. Vì vậy, “chỗ sâu” của hồ được cho là vực sâu của Hỏa ngục,
như Thánh Gioan
Kim Khẩu đánh đồng
hai thuật ngữ, nói rằng, “Và chúng {Binh đoàn quỷ} đã xin Chúa Kitô đừng ra lệnh cho chúng xuất
ra khỏi người
bị ám và nhào xuống chỗ nước sâu”. 14 Maximus the Confessor [h] cũng coi chỗ sâu của hồ là tượng trưng cho sự trừng phạt tội kiêu ngạo tìm kiếm những biệt đãi trái lẽ từ Thiên
Chúa,
như ngài nói, "Do đó, vực sâu được dành cho quỷ dữ, cũng như
cho những kẻ tự hãnh mà quỷ dữ dõi theo. Và ở đó một bầy heo, v.v. ” 15
Mặt
khác, chỗ sâu cũng có thể tượng trưng cho lòng thương xót, tình yêu
và sự hiểu biết của Thiên
Chúa. Đây là một sự ví von rõ ràng và đơn giản — Phêrô thả lưới của mình theo lệnh của Chúa Kitô để bắt cá,
và vì vậy, chúng ta trong Hội Thánh, nhận
được từ Chúa Kitô những ơn ích thiêng liêng dồi dào. Như Thánh Ambrôsiô giải
thích, “Điều gì là thật
sâu sắc, nếu không
phải là sự hiểu biết về Con Thiên Chúa!” 16 Thánh Augustinô cũng
có một sự hiểu biết tương tự khi ngài cho biết một chỉ dẫn về cách dạy giáo lý
cho những người mới được rửa tội:
Ngài dạy dỗ đám đông từ con tàu nào, bởi vì do thẩm quyền của Giáo hội, Ngài giảng dạy cho dân ngoại. Nhưng việc Chúa xuống thuyền và yêu cầu Phêrô ra xa khỏi
đất liền một
chút, có nghĩa là chúng ta phải ôn tồn trong
lời nói của mình với đoàn dân, để họ không bị
dạy bảo những
điều trần gian, cũng
như không thể đi vào chiều sâu của các
bí tích mà vẫn nghĩ đến
những điều trần gian. 17
Ở đây,
Thánh Augustinô có
ý nói đến điểm thống nhất nối kết những
đáy sâu nguy hiểm của Biển với lòng thương xót ban phát rộng rãi mẻ cá dồi dào. Mặc
dù ở mức độ bề mặt có sự mâu thuẫn, nhưng đáy sâu tượng trưng cho Hỏa ngục khi gặp nguy cơ chết đuối, và đáy sâu cũng tượng trưng cho tình
yêu đầy thương xót của Thiên
Chúa khi Ngài ban vô số
ơn ích, hai ý nghĩa này được thống nhất thành sự
sống và ơn cứu độ dành cho Kitô hữu trong Giáo hội, dưới sự hướng dẫn của Thánh Phêrô. Như Thánh Ambrôsiô giải thích thêm:
Cuối cùng, mặc dù đối với những người khác
nó là mệnh lệnh,
hãy thả lưới của anh em xuống,
riêng đối với Phêrô, Chúa nói rằng: Hãy ra chỗ nước sâu, nghĩa
là nghiên cứu sâu xa. Điều gì là
thật sâu xa, nếu không
phải là sự hiểu biết về Con Thiên Chúa! Nhưng cái lưới mà các Tông đồ được lệnh phải thả xuống là
gì, nếu không phải
là sự đan kết giữa những từ ngữ và một số các từ loại nhất định, như vốn
có, và sự phức tạp của lập
luận, tất cả những điều này nhằm không bao giờ để cho những người một khi
đã đựơc các Tông đồ nắm bắt thì không thể thoát ra. Và lưới đúng là công cụ của các Tông đồ để đánh cá,
không phải để giết
những con cá bị bắt được,
nhưng để giữ
chúng an toàn, và đưa những con đang tung tăng sâu bên dưới những
con sóng lên vùng nước phía trên. Nhưng Thánh Phêrô nói: Thưa Thầy,
chúng tôi đã vất vả cả đêm mà chẳng bắt được gì; đây không phải là tác động của lời nói hùng hồn do con người mà là ân huệ của lời mời
gọi thần linh. Các Tông đồ, trước đó không bắt được gì cả, thì bây giờ, vâng theo lời Chúa, lại
bắt được vô số cá lớn.18
Chiều sâu của hồ vừa biểu lộ sự nguy hiểm cho những người chưa được chuẩn bị vừa biểu lộ lòng thương xót dồi dào đối với những người
được Chúa Kitô hướng
dẫn. Các từ ngữ, dấu hiệu, cụm từ, giống
như dòng nước chảy xiết và bão tố, có thể
dễ dàng cuốn bay
những người không có sự hướng dẫn theo giới luật của Chúa Kitô, nhận được qua Phêrô. Những gì nhấn chìm tội nhân, vướng mắc vào mành lưới
của những lời vô ích, thì lại cứu những người được tuyển chọn, là những người
đã được đưa lên những điều cao cả hơn nhờ lời cứu độ của Chúa Kitô, được thể hiện
qua cánh tay mạnh mẽ trong Giáo Hội của Thánh Phêrô.
Như vậy, Biển, được xem như một tổng thể trong khoa chú
giải của các Giáo Phụ, mang một chiều sâu ý nghĩa rộng lớn. Ý nghĩa của nó
trải dài từ đời sống hiện tại của Giáo hội, và của các cá nhân, đến các quyền lực
thời cánh chung đối lập với ơn cứu độ. Bề rộng của nó bao trùm toàn bộ
Giáo hội phổ quát như con tàu do Thiên Chúa chèo lái. Chiều sâu của nó chứa
đựng ơn cứu độ dồi dào cho những người có đức tin, nhưng đe dọa sẽ nhấn chìm những
người không có ân sủng của Giáo hội. Thấu kính trọng tâm, quan trọng và cần
thiết nhất để hiểu tất cả những tương đồng này là Chúa Giêsu Kitô. Ngài là
thuyền trưởng của con tàu, là Thiên Chúa mà chúng ta có thể tin tưởng để vượt
qua Biển một cách an toàn, Ngài là vị cứu tinh dẹp yên cơn bão. Những tường
thuật về phép lạ trong sách Tin Mừng Luca, thể hiện quyền năng của Chúa Kitô,
và cung cấp bằng chứng cho biết rằng sự dạy dỗ của Ngài là chân thật, và sau
đó, trong những năm đầu của Giáo hội, được ghi lại trong sách Công vụ, là sứ
mệnh loan truyền Tin Mừng được bảo vệ ngay cả trong vùng Biển bão tố nhất, và
giữa những niềm hy vọng đang lụi tàn. Thái độ của các Thánh vịnh đối với Thiên
Chúa, sự thể hiện tin tưởng tuyệt đối vào lòng thương xót của Ngài, và sự bảo vệ
chính là sự hiểu biết mà các Giáo phụ dùng để giải thích các hành động của Chúa
Kitô và các chi tiết của các câu chuyện về Ngài. Ở bất cứ nơi nào, các
Kitô hữu cũng có thể lang thang giữa Biển đời, các Giáo phụ dạy rằng sự tin tưởng
trong Thánh vịnh 56 có thể bộc lộ nhiều hơn niềm tin cậy phó thác vào con người
của Chúa Giêsu:
Bước đường
con lận đận, chính Ngài đã đếm rồi.
Xin lấy
vò mà đựng nước mắt con.
Nào Ngài
đã chẳng ghi tất cả vào sổ sách?
Địch thù
phải tháo lui vào ngày tôi cầu cứu.
Tôi biết
rằng: Thiên Chúa ở bên tôi.
Tôi tin
tưởng vào Thiên Chúa và ca tụng lời Người;
tôi ca tụng
lời Chúa.
Tôi tin
tưởng vào Thiên Chúa và không còn sợ hãi;
phàm nhân
làm gì nổi được tôi? 19
Lòng
thương xót của Thiên Chúa được mặc khải cho thế giới trong con người của Chúa
Giêsu, Con Thiên Chúa, Ngôi Lời đã trở thành xác thịt, trao ban chìa khóa để chúng
ta hiểu biết và rao giảng những ẩn nghĩa khác nhau được các Giáo Phụ rút ra từ Biển.
Chú thích
của người dịch:
[a] Trong thần thoại Hy Lạp, Aeneas là một anh hùng của
thành Troia, là con trai của Anchises và nữ thần tình yêu Aphrodite.
[b] Gilgamesh là một vị vua trong lịch sử của thành bang
Uruk của Sumer cổ đại, một anh hùng trong thần thoại Lưỡng Hà cổ đại, và là
nhân vật chính của Sử thi Gilgamesh, được viết bằng tiếng Akkad vào cuối thiên
niên kỷ 2 trước Công nguyên. Trong sử thi, Gilgamesh là một vị bán thần có sức mạnh siêu phàm.
[c] Ông già và
Biển cả (tên tiếng Anh: The
Old Man and the Sea) là một tiểu thuyết ngắn được Ernest Hemingway viết ở Cuba năm 1951 và xuất bản
năm 1952. Trong
tác phẩm này ông đã triệt để dùng nguyên lý mà ông gọi là "tảng băng trôi", chỉ mô tả ba phần nổi còn lại bảy phần chìm, khi
mô tả sức mạnh của con cá, sự chênh lệch về lực lượng, về cuộc chiến đấu không
cân sức giữa con cá hung dữ với ông già. Tác phẩm ca ngợi con người,
sức lao động và khát vọng của con người.
[d] John Ronald
Reuel Tolkien (đọc là /ˈtɒlkiːn/)[1] (3 tháng 1 năm 1892 – 2 tháng 9 năm 1973) là một nhà văn, tiểu thuyết gia, và giáo sư người Anh, được công chúng biết
đến nhiều nhất qua các tác phẩm Anh chàng Hobbit (The Hobbit) và Chúa tể những
chiếc nhẫn (The
Lord of the Rings).
[e] Legolas là
một trong số 9 thành viên của Đoàn
Hộ Nhẫn và được miêu tả nhiều trong bộ ba tác phẩm tiểu thuyết Chúa tể của những Chiếc Nhẫn.
Legolas tự tay làm ra một chiếc thuyền, và qua dòng Anduin, anh ta rời khỏi
Trung Địa và đi tới Vùng đất bất tử ở phía Tây xa xôi.
[f] Catena là một hình thức bình luận Kinh thánh, từng
câu, được làm thành hoàn toàn từ các trích đoạn của các nhà bình luận Kinh
thánh trước đó, mỗi phần được giới thiệu với tên của tác giả, và với những điều
chỉnh nhỏ để toàn bộ làm thành một bình luận liên tục.
[g] Bede the Venerable, nghĩa là "Đấng Đáng Kính Bede". Ngài đã trải qua hầu hết cuộc đời mình ở các tu viện
Nearmouth và Jarrow, miền bắc nước Anh. Là một sử gia chuyên nghiệp, người được
biệt danh là "Đáng tôn quý" từ thế kỷ thứ 9, là một người có nếp sống
thánh lành. Tác phẩm đưa ngài lên hàng tên tuổi lớn là "Lịch sử Giáo hội tại
Anh Quốc" được đánh giá là nguồn tư liệu phong phú mà ngài đã cẩn thận tìm
tòi, suy cứu và nó được xác định một cách rõ ràng, những sự kiện có liên quan
đã chống lại những gì có tính chất thần thoại, phản ánh những sự nghiên cứu, học
hỏi Thánh Kinh sâu sắc nhất của ngài, bao hàm việc dịch Thánh Kinh ra tiếng mẹ
đẻ của ngài.
[h] Một trong những đại Giáo Phụ của Giáo Hội Đông phương
vào những thời sau này. Ngài là một đan sĩ, Thánh Maximus, vị có một tấm lòng
can đảm không biết hãi sợ trong việc làm chứng – “tuyên xưng - Confessor” –
ngay cả trong lúc khổ đau, đức tin chân chính nơi Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa
thật và là người thật, Đấng Cứu Thế, đã có được danh xưng theo Truyền Thống
Kitô giáo là Confessor. Thánh Maximus được sinh ra ở Palestine, mảnh đất của
Chúa, vào khoảng năm 580. Khi còn là một cậu bé, ngài đã được khơi động về đời
sống đan tu và học hỏi Thánh Kinh nhờ các tác phẩm của giáo phụ Origen, một đại
sư phụ vào thế kỷ thứ ba đã “thiết lập” truyền thống chú giải thánh kinh của
thành Alaxandria.
Tài liệu
tham khảo:
1. Tolkein,
JRR, The Return of the King , (New York: Ballantine Books,
1973), 261.
2. Điều này
tương tự như tâm lý học của Jung về thần thoại, nhưng tôi nghĩ rằng nó đã vượt qua
những gì Jung nói. Đối với Jung, những huyền thoại này hoạt động trên một
mức độ tâm lý - một loại ký ức tập thể nào đó. Tuy nhiên, đối với các Giáo
phụ, những huyền thoại và những phép loại suy tương đồng đánh động chúng ta vì
chúng gắn liền với việc Thiên Chúa đã hoạt động làm cho công trình sáng tạo của
Ngài thấm đẫm ý nghĩa. Để biết thêm về việc trí tưởng tượng và tính biểu
tượng quan trọng như thế nào đối với ý nghĩa và giáo dục, tôi thực sự đề xuất
cuốn sách The Abolition of Man của CS Lewis.
3. Đấng đáng
kính Bede, được trích dẫn trong Catena Aurea của Thánh Tôma Aquinô, Quyển. III, Phần 1, (Albany: Bảo tồn
các ấn phẩm Kitô giáo, Inc., 1995), 173.
4. Đã dẫn.
5. Thánh Grêgôriô
Nazianzê, được
trích dẫn trong Ibid.
6. Thánh Cyrilô, được trích dẫn trong sđd., 277.
7. Thánh Ambrôsiô, được trích dẫn trong sđd.,
278.
8. Luca 17: 6.
9. Thánh Gioan
Chrysostom, Bài giảng LIII.
10. Chrysostom, Homily X.
11. Giêrônimô, chống
lại Giôvinianô, Bk II, 24.
12. Ambrôsiô, được
trích dẫn bởi Thánh Tôma Aquinô trong Catena
Aurae , 175-176.
13. Luca 8: 31 & 33.
14. Thánh John Chrysostom, được trích dẫn bởi Thánh Tôma Aquinô trong Catena
Aurea , 282.
15. Đã dẫn.
16. Thánh Ambrôsiô, được trích dẫn trong sđd.,
175.
17. Thánh Augustinô, được trích dẫn trong sđd.,
174. Thuật ngữ “các bí tích” ở đây có thể ám chỉ việc thực hành bí tích của
Giáo Hội, dành cho những người mới bắt đầu, hoặc
“các mầu nhiệm”, là sự hiểu
biết thần học sâu sắc được ban cho các tín hữu bởi ân sủng của niêm tin. Nó cũng có thể có nghĩa là
cả hai – Thánh Augustinô thích những nghĩa kép.
18. Thánh Ambrôsiô, được trích dẫn trong sđd.,
175.
19. Thánh vịnh 56:
8-11.
Về Ambrose Doborozsi
Ambrose
Dobrozsi đang theo học chức linh mục tại
Chủng viện Thánh Maria phía Tây Tổng giáo phận Cincinnati. Ambrose
nhận bằng đại học tại Trường Cao đẳng Công giáo Đông Bắc về nghệ thuật tự do,
và bằng thạc sĩ thần học tại Đại học Dayton.
Phêrô Phạm Văn Trung chuyển ngữ.
https://www.hprweb.com/2016/05/a-vast-depth-of-meaning-the-sea-in-luke-and-acts/