Cụ Ngụy Khắc Đản (1817- 1873) người xã Xuân
Viên, huyện Nghi Xuân, tĩnh Hà Tĩnh. Thi đỗ cử nhân khoa Tân Sửu (1841) và đỗ
Thám hoa khoa Bính Dần (1856). Sau đó được bổ làm Tri phủ phủ Thăng Bình (Quảng
Nam), rồi thăng Án sát tỉnh Quảng Nam. Trong thời gian làm Án sát Quảng Nam, cụ
nhận thấy việc dùng uy vũ bắt ép những giáo dân theo đạo Da tô bỏ đạo không có
kết quả. Đối với những giáo dân trung kiên cho dù dùng hình phạt gì đi nữa họ vẫn
không sờn lòng: “Liều mình trấn nước cớ
chi/ Gông cùm lòi tói đeo trì cũng mang”. Nên cụ Ngụy Khắc Đản đã làm bài “Hoán mê khúc” kêu những người theo đạo
Da tô: “Tin chi Tây giáo truyền qua/ Can
vào quốc pháp, can ra tội người”. Trong bài Hoán mê khúc, cụ Ngụy Khắc Đản
dẫn chứng một số chuyện mà theo cụ cho là hoang đường trong đạo Da tô: “Ai nấy thử nghe lời giải thích/ Đạo Tây kia
đích đáng vào đâu?/ Phép truyền ba sự nhiệm mầu/ Nghĩ ra nào có thông đầu suốt
đuôi?/ Một rằng: Thiên Chúa Ba Ngôi/ Trời sao mà lại một Trời chia ba?/ Hai rằng:
sự tích Đức Bà/Đồng trinh mà đẻ ấy là có mô?/ Ba rằng: sự Chúa Da tô/ Tội mình
chưa khỏi mà mua tội người!/ Điều chi điều chẳng nực cười/ Thế mà thiên hạ dưới đời
cũng tin”.
Xem ra cụ Ngụy Khắc Đản có tư tưởng tiến bộ
hơn các quan lại cùng thời. Những quan lại bất tài chỉ biết khuyên giáo dân
theo đạo Da tô bỏ đạo bằng cái thứ lý luận của bọn vũ phu thất học: “Đứa nào cứng cổ cượng co/Dây roi có đó, nọc
vồ có đây”. Cụ Ngụy Khắc Đản đã dùng lý luận đạo đức, văn hóa để khuyên nhủ
giáo dân theo đạo Da tô mau tỉnh ngộ lại. Bởi cụ Ngụy Khắc Đản hiểu rõ: uy vũ
không thắng nỗi đạo giáo bao giờ! Đó là lý do thúc đẩy cụ Ngụy Khắc Đản sáng
tác bài “Hoán mê khúc”[1].
Tháng 5 năm Quý Hợi (1863) “Sai Hiệp biện Đại học sĩ là Phan Thanh Giản,
Lại bộ Tả Tham tri Phạm Phú Thứ, Án sát Quảng Nam là Ngụy Khắc Đản đi sang sứ
Tây dương (Thanh Giản sung làm Chánh sứ,Phú Thứ sung làm Phó sứ, Khắc Đản sung
làm Bồi sứ)”[2] để thương lượng chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ (Gia Định,
Biên Hòa, Định Tường). Phái đoàn đi sứ sang Pháp và Y pha nho đến tháng 2 năm
Giáp Tý (1864) thì về đến Huế: “Sứ bộ
sang Tây về tới Kinh, vua cho Phan Thanh Giản lãnh Thượng thư bộ Lại, Phạm Phú
Thứ làm Tả Tham tri bộ Lại, Ngụy Khắc Đản lấy hàm Quang lộc tự khanh Biện lý bộ
Binh”[3]. Trong chuyến hành trình đi sứ sang Tây, cụ Phạm Phú Thứ thuật lại
trong “Tây hành nhật ký”. Riêng cụ Bồi
sứ Ngụy Khắc Đản cũng viết về chuyến đi trong tập “Như Tây ký”[4]. Như Tây ký của cụ tường thuật những điều mắt thấy
tai nghe về tôn giáo, văn hóa, chính trị, quân sự, thương nghiệp, y tế, âm nhạc…của
nước Pháp và các vùng lân cận.
Riêng lãnh vực tôn giáo, cụ Bồi sứ Ngụy Khắc
Đản viết về Do Thái giáo, Da tô giáo (Công giáo), Tin lành, Hồi giáo. Cụ Bồi sứ
Ngụy Khắc Đản sau khi nghe kể về cuộc đời của Chúa Giêsu, cụ thuật lại trong
Như Tây ký (trong sách xuất bản chỉ có nguyên văn chữ Hán và bản dịch không có
bản phiên âm): “Da tô[5] tắc Xu diêu quốc[6] nhân dã. Xu diêu nguyên tại hải
trung đông ngạn, kim thuộc Tu du ki quốc[7], nhi kỳ di tán xứ Tây phương chư quốc”
(Da tô [Jésus] là người nước Xu [Judea].
Xu diêu [Judea] nằm ở bờ đông của biển, nay thuộc nước Tu du ky [Turquie/ Thổ
Nhĩ Kỳ]. Dân xứ này sống tản mác trong các nước phương Tây”[8]
Viết về Đức Maria: “Da tô chi mẫu Ma di a giả,
Biết lê hem hương nhân[9]. Sơ dĩ xử nữ thỉ nguyện vi đồng trinh, mộng thần nhân
cáo chi viết: Cứu Thế Chúa đang thác kỳ hoài dĩ sinh, nãi hữu thần (thử ngữ Anh
cát lợi nhân bất chi tín). Hương trung hữu mộc tượng nhân, danh Du de lão nhi bần,
diệc mộng thần nhân cáo chi viết: Cứu Thế Chúa đang thác Ma di a dĩ sinh, nghi
hộ dưỡng chi. Ký nhi Da tô sinh ư kỳ hương chi lư cứu trung. Cái vị giai Da tô
tự trạch kỳ tân khổ xứ dã” (Mẹ của Da
tô[Jésus] là Ma di a [Maria] người làng Biết lê hem [Bethlehem]. Thuở ban đầu
giữ phận xử nữ phát nguyện làm đồng trinh, trong mộng được thần nhân cho hay rằng:
vị Chúa Cứu Thế đang thác trong bào thai để chào đời, thế là bà có thai (câu
chuyện này người Anh cát lợi nay không cho là đáng tin[10]). Trong làng có người thợ mộc tên là Du de [Giuse/Joseph],
già lại nghèo, cũng được thần báo mộng rằng: Chúa Cứu Thế đương thác sinh bởi
Ma di a[ Maria], hãy nên che chở nuôi dưỡng đứa bé ấy. Đến khi Da tô [Jésus] được
sinh ra trong chuồng lừa ở trong làng, thiên hạ đều bảo Da tô [Jésus] tự chọn
nơi gian khó).
Đặt tên cho hài nhi: “Thời Du de tựu dĩ mộng
cáo Ma di a, huề Da tô giai quy, nhi danh chi viết: Du nhi Cơ di si tô (Du nhi
vị Cứu Thế dã, Cơ di si tô vị tằng thụ pháp du dã danh chi viết: Da tô viết Cơ
đốc giai kỳ cận âm dã” (Thuở ấy Du
de[Giuse] đem lời mộng triệu ấy kể cho Ma di a[Maria] biết, rồi mang Da tô[
Jésus] về cùng chăm nuôi, đặt tên là Du nhi Cơ di si tô [Jésus Christus/ Giêsu
Kitô] (Du nhi [Jésus] là vị Cứu Thế; Cơ di si tô[Christus/Kitô] đã từng chịu
phép xức dầu. Các tên gọi Da tô, Cơ Đốc đều gần âm này[11]).
Ba vị đạo sĩ đến chiêm bái hài nhi Giêsu: “
Ư thị dạ hữu dị tinh, hiện Xu diêu chi đông, hữu Phê dơ xe quốc giả, kỳ nhân
tinh ư chiêm hậu chi thuật, nhi bất năng đoán. Thời hữu tù trưởng tam nhân
phương kỳ nghị chi, hữu thần nhân ngữ chi viết: Cứu Thế Chúa ư sanh hỹ? Thị dĩ
thử tinh báo ứng, nghi cầu nhi sự chi, ư thị tam nhân, cụ hương hoa thứ phẩm,
hướng tinh dĩ hành, tinh diệc tùy chi. Nhược đạo dẫn nhiên, cập chí Da tô xứ,
nhi dị tinh hốt ẩn. tam nhân giả kiến Da tô dĩ quy. Quá Xu diêu tù ngôn kỳ dị.
Xu diêu tù nghi chi. Nhiên bất tri kỳ nhân. Lệnh Xu diêu dân, phàm ư thị thời
sơ sanh trưởng nam vô đắc cử giả”(Đêm hôm
ấy có sao lạ hiện ở phía đông xứ Xu diêu [Judea]. Có người nước Phê dơ xe [Perse,
Ba Tư, tức Iran] tinh thông thuật chiêm tinh nhưng cũng không đoán được. Khi ấy
ba vị tộc trưởng[12] đang cùng nghị
luận thì có thần nhân nói rằng: Chúa Cứu Thế đã chào đời, vậy vì sao này là báo
ứng, hãy nên cầu [kiến] mà phụng sự Chúa. Thế là ba vị tộc trưởng soạn đầy đủ lễ
nghi vật phẩm, theo hướng vì sao mà đi theo. Vì sao cũng thuận theo tựa như dẫn
lối, cho đến nơi ở của Da tô [Jésus] thì sao lạ bỗng nhiên ẩn đi. Ba vị tộc trưởng
gặp được Da tô [Jésus] rồi mới trở về, qua xứ Xu diêu[Judea] gặp tộc trưởng thuật
lại sự kỳ lạ[13]. Tộc trưởng Xu diêu [Judea]
ngờ vực nhưng không biết người, bèn lệnh cho dân Xu diêu [Judea], hết thảy trẻ
sơ sinh nào vào thời điểm ấy khi trưởng thành đều không được tiến cử[14])
Gia đình Thánh gia trốn sang nước Ai Cập:
“Thần hựu dĩ cáo Du de noa chi dĩ đào, vãng cư ư Ê dịch quốc[15] (kim Kê thành
ngoại đích sổ lý hứa sở hữu cổ thụ vân Da tô mẫu tử hành gian sở khế dã. Kim
Tây phương giáo nhân đa nhân chi quảng vi ba viên lai quan giả, đa chí kỳ danh
dĩ vi vận sự). Thập dư niên phục hồi Xu diêu” (Thần lại báo cho Du de [Giuse] biết mà bế Da tô [Jésus], chạy tới cư
ngụ ở nước Ê dịch [Egypte/Ai Cập]( nay ngoài thành Kê [Caire, tức Cairo] khoảng
vài dặm có gốc cổ thụ là nơi mẹ con Da tô [Jésus] nghỉ chân. Ngày nay giáo dân
phương Tây tới tham quan vườn chuối, ghi lại tên tuổi để làm kỷ niệm đẹp[16]).
Mười mấy năm sau trở lại Xu diêu [Judea]).
Trước khi đi sứ sang Tây, cụ Ngụy Khắc Đản
đã mang nặng thành kiến không tốt về đạo Da tô: “Âu hẳn bởi mê man Tả đạo/Nghe Tây dương dạy bảo lẽ sai”. Khi sang
Tây, cụ đã tiếp cận với lịch sử của đạo Da tô, nên cụ cố gắng thuật lại một
cách rõ ràng về đạo Da tô. Do hành trình đi sứ cả đi lẫn về chỉ có 7 tháng và bận
rộn với nhiều công việc của sứ bộ và chỉ nghe qua một đôi lần cho nên việc ghi
chép của cụ không thể tránh nhầm lẫn, sai sót. Tuy vậy Như Tây ký là văn bản để
vua Tự Đức và các quan trong triều đình Huế tiếp cận về đạo Da tô một cách thấu
đáo bởi một vị quan trong triều ghi chép lại..
Nguyễn Văn Nghệ
Giáo xứ Cây
Vông- Nha Trang
Chú thích:
[1]- Lam Giang& Võ Ngọc Nhã, Đặng Đức Tuấn tinh hoa Công giáo ái quốc Việt
Nam, In lần thứ nhất. Tác giả tự xuất
bản, 1970, tr.271- 272, 274-275, 278, 280.
[2]- Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục tập 7, Nxb Giáo dục,
tr. 812
[3]- Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục tập 7, Nxb Giáo dục,
tr. 839
[4]- Như Tây ký là văn bản viết tay, dày 180
trang, khổ sách 29x30cm. Có tất cả 2239 từ (chủ yếu là chữ Hán có xen lẫn đôi
chữ Nôm) mang ký hiệu A.764, hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm
[5]- Da tô là âm Hán Việt tên Jésus được phiên âm
sang chữ Hán. Lâu nay nhầm lẫn được viết là “Gia tô”.
[6]- Xu diêu quốc: Nước Xu diêu tức là xứ Judea.
Sách Kinh Mục lục của Địa phận Qui Nhơn ghi là “nước Giu dêu”. Cụ Ngụy Khắc Đản
khi phiên âm các địa danh, nhân danh của phương Tây, không tuân theo một quy tắc
nào cả, Chỉ nghe âm đọc lên rồi phiên âm sang chữ Hán Nôm theo ý riêng của cụ.
[7]- Thời điểm cụ Ngụy Khắc Đản đi sứ Tây dương
năm 1863-1864, thì vùng Palestine (bao gồm xứ Judea) bị Đế quốc Ottoman (Thổ
Nhĩ Kỳ) xâm chiếm
[8]- Ngụy Khắc Đản, Như Tây ký (1863-1864) (Phiên dịch và khảo cứu: Cao Việt Anh), Nxb
Đại học Sư phạm (bài viết sử dụng bản dịch của Cao Việt Anh).
[9]- Maria và Giuse không phải người làng
Bethlehem, mà là Nazareth. Bethlehem là tổ quán (quê quán của tổ tiên) của
Giuse. Giuse đã đem Maria về thành Bethlehem để khai dân số và sinh hạ Đức
Giêsu tại Bethlehem.
[10]- Chi tiết này, cụ Ngụy Khắc Đản chú thích
sai. Tín điều Đức Maria sinh con mà vẫn còn đồng trinh chỉ có tín hữu Tin lành
không công nhận mà thôi. Dân Anh cát lợi theo Anh giáo vẫn tin Đức Maria đồng
trinh.
[11]- Du nhi Cơ di si tô: phiên âm tên Jesus
Christus. Trước đây người Công giáo Việt Nam đọc “Giêsu Ki ri xi tô”, nay đọc
là Giêsu Kitô. Chỗ này cụ Ngụy Khắc Đản không phiên âm Jesus thành Da tô mà lại
phiên âm thành “Du nhi”. Thế kỷ XIX người Việt Nam phiên âm tên Jesus bằng nhiều
cách. Trong bài Sát Tả bình Tây hịch bằng chữ Hán phiên âm là “Chi thu”: “Chúa
Trời, Chi thu chi thuyết, phục uế thính văn” (Tin nhảm, tin xằng, bịa đặt Chúa
Trời, Giêsu). Trong bài “Vè đánh đạo” cụ Tú Quỳ(1828- 1926) lại phiên âm là “Du
di”: “Bắt Chúa Du di/Nhà phước đá đi/Nhà chung quét sạch”.
[12]- Bản chữ Hán ghi: “Tù trưởng tam nhân”, dịch
giả Cao Việt Anh dịch là “ba vị tộc trưởng”. Trước đây người Công giáo Việt Nam
gọi là “Ba ông vua” và gọi tắt là Ba Vua. Nay gọi là Ba nhà Đạo sĩ.
[13]- Chi tiết này cụ Ngụy Khắc Đản thuật lại sai.
Ba vị “tộc trưởng” ấy gặp vua Herode trước rồi mới đến chiêm bái hài nhi Giêsu(xem
Kinh Thánh Tân ước Mattheo chương 2, câu 1-12).
[14]- Chi tiết này cùng thuật lại sai. Sau khi ba
vị “tộc trưởng” đi đường khác mà về, thì vua Herode tức giận giết tất cả trẻ em
nam thành Bê lem và vùng phụ cận từ hai tuổi trở xuống “tính theo thời gian ông
đã hỏi kỹ nơi các đạo sĩ” (xem Kinh Thánh Tân ước Mattheo chương 2, câu 16-18)
[15]- Ê dịch quốc nay gọi là Ai Cập. Người Công
Giáo Việt Nam xưa gọi là nước Ê giếp tô.
[16]- Đoạn nói đến vườn chuối không thấy ghi trong
Kinh Thánh.