Chuyện kể về một bà mẹ góa với
đứa con côi. Con là niềm vui của mẹ, mẹ
là niềm vui của con. Con cười thì mẹ cười, con khóc thì mẹ khóc, có khi mẹ khóc
trước con, như khi thấy con đói mà mẹ chưa kiếm được gì cho con ăn... Hai mẹ
con như một cặp song ca hoàn toàn ăn ý. Đứa bé tinh khôn, chẳng bao giờ muốn
làm mẹ nó buồn. Nhưng một hôm nó cũng làm mẹ buồn đến nỗi mẹ sai nó đi lấy cái
roi cho mẹ... Nó cầm cái roi tới đặt trước mặt mẹ rồi ôm chầm lấy mẹ. Mẹ ơi con
lỡ làm mẹ buồn nhưng con không muốn mẹ khóc đâu. Mẹ khóc thì con đau hơn mẹ
đánh, mà mẹ đánh con thì mẹ sẽ khóc... Thế rồi hai mẹ con ôm nhau, quên cả cái
roi...
Chuyện một
người cha có cách dạy con khác người. Hồi tôi mới được mời vào ở “Khách Sạn Cây Mít” trong « Sở CÁ T.P.H.C.M., tôi ở chung phòng với ông
Cao Dao, một nhà báo lão thành từ thời Bảo Đại, khi ấy ông đã 67 tuổi. Ông kể
cho tôi về cách dạy con khác người của cha ông, là một tri phủ. Mỗi khi đứa con
nào làm điều sai trái cần phải sửa dạy. Ông ra ngồi trước bàn thờ tổ, gọi đứa
con có lỗi, sai đem roi tới cho ông. Con cầm roi tới, ông bảo con chắp tay đứng
trước bàn thờ, ông cầm roi đặt trước bàn thờ, trang trọng thắp nhang vái tổ...
Phủ phục vập đầu nhận tội, xin tổ tiên tha thứ vì không biết dạy con… Rồi ông cởi
áo, cầm roi tự quất vào lưng trần của mình...
Hai câu
chuyện này luôn theo tôi khi tôi đọc sách Thánh, nhìn ngắm cách cư xử của Thiên
Thiên Chúa với tổ phụ Áp-ra-ham, với dòng dõi Áp-ra-ham theo huyết nhục là dân
của giao ước Xi-nai, với dân của Giao Giao Ước Mới và với cả loài người được mời
gia nhập Giao Ước Mới : người ta có
nhận hay không là quyền tự do của họ, nhưng về phía Thiên Chúa, Ngài đã nhận tất
cả con cái loài người làm con cái của Ngài rồi và đối xử như một người cha nhân
lành, chỉ muốn cho con nên người để không làm hổ mặt ông bà tổ tiên.
Chuyển cầu
hay “cầu thay nguyện giúp » là nhu cầu của loài người trong đời sống hàng
ngày : mẹ đứng ra xin bố ngưng đánh con… các con súm lại van xin bố mẹ… có
việc với quan lớn « thanh liêm » thì đi cửa sau, đem lễ hậu nhờ bà lớn
nói giúp… Ngày xưa cũng như ngày nay. Trong truyên Kiều, cha bị vu oan, nhưng
muốn gỡ cho cha thì « có ba trăm lượng
việc này mới xong ». « Gia
cư nghỉ cũng thường thường bậc trung » thì đào đâu ra ba trăm lượng
cho quan ăn !? Thúy Kiều đành phải bán mình lấy tiền chuộc cha. Ngẫm nghĩ
về việc này Cụ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến đã ngâm vịnh : « Ba trăm lượng việc ấy mà xong nhỉ - Thuở trước
làm quan cũng thế a ? » Cụ sống ở thời nhiễu nhương đầu thế kỷ
20, tưởng thời xưa khá hơn, ai dè 300 trước người ta cũng biết làm quan… tham để
ăn rồi !
Thiên Chúa nhân từ vô cùng, yêu
thương từng người, chẳng cần ai nói giúp ai, cũng không ai có thể « mua »
qua cửa trước hay qua cửa sau, nhưng con người cần học sống liên đới với nhau để
sống tình huynh đệ như ý định của Thiên Chúa khi tạo dựng loài người.
Ngôn sứ
Giê-rê-mi-a đã tố cáo dân Chúa Giu-đa thời sắp bị lưu đầy, vì họ tưởng Thiên
Chúa bao che cho tội ác của họ :
Đây là lời ĐỨC CHÚA phán với ông Giê-rê-mi-a : 2Ngươi hãy đứng ở cửa Đền Thờ ĐỨC
CHÚA và tuyên bố những lời sau đây : Tất cả những người Giu-đa qua cửa này vào thờ phượng ĐỨC CHÚA, hãy nghe lời ĐỨC CHÚA. 3ĐỨC CHÚA các đạo binh là Thiên Chúa của Ít-ra-en phán : Hãy cải thiện lối sống
và hành động của các ngươi, Ta sẽ cho các ngươi lưu lại nơi này. 4Đừng ỷ vào lời giả dối sau đây : “Đền Thờ của ĐỨC CHÚA ! Đền Thờ của ĐỨC CHÚA ! Đã có Đền Thờ của ĐỨC CHÚA !” 5Nếu các ngươi thật sự cải thiện lối sống và hành động của
các ngươi, nếu các ngươi thật sự đối xử công bằng với nhau, 6không ức hiếp ngoại kiều hay cô nhi quả phụ, nếu các
ngươi không đổ máu người vô tội nơi đây, không đi theo các thần ngoại mà
chuốc hoạ vào thân, 7thì Ta sẽ cho các ngươi lưu lại nơi
này, trong phần đất Ta đã ban cho cha ông các ngươi đến muôn đời. 8Nhưng các ngươi lại ỷ vào những lời dối trá vô giá trị. 9Trộm cắp, giết người, ngoại tình, thề gian, đốt hương tế
thần Ba-an và đi
theo các thần lạ các ngươi không biết, 10rồi lại vào nhà này, nơi danh Ta được kêu khấn, đến trước
mặt Ta mà nói : “Chúng ta được an toàn !”, sau đó cứ tiếp tục làm những điều
ghê tởm ấy. Thế nghĩa là gì ? 11Phải
chăng các ngươi coi nhà này, coi nơi danh Ta được kêu khấn là hang trộm
cướp sao ? Ta, Ta thấy rõ hết – sấm ngôn của ĐỨC
CHÚA. (Gr 7,1-11).
Những lời
này vẫn có giá trị cho mọi thành phần của Dân Chúa hôm nay. Đừng đổ tội cho người
khác, nhưng hãy cầu cho nhau và cho mọi người ; mỗi người phải lo xét mình
và đấm ngực mình, đừng đấm ngực người khác, lo cải thiện đời sống bản thân trước
khi vạch tội người khác và đòi người khác cải thiện đời sống của họ.
Chuyện thời sự
nóng bỏng cho thấy trong Hội Thánh ngay thời chúng ta đây, nhiều vị cao cấp
ngay trong cái gọi là “giáo triều Rô-ma” cũng nhận tiền để bao che mọi thứ tội
ác ghê tởm nhất của McCarrick, vị Hồng Y nổi tiếng [mọi mặt !], tổng giám
mục giáo phận Washington, thủ đô nước Hoa Kỳ, cho tới khi ĐTC Phan-xi-cô ra tay
truất tước hồng y năm 2018 và truất bậc giáo sĩ năm 2019. Hồ sơ 460 trang được
Tòa Thánh công bố hôm 10 tháng 11 năm 2020 vừa qua cho thấy ông đã dùng đô-la
che mắt bịt miệng bao nhiêu vị chức sắc có nhiệm vụ điều tra về những cáo buộc
lạm dụng tính dục mọi lứa tuổi. Các vị này đã che đậy cho ông ta từ đời thánh
Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II cho tới Đức Benedicto XVI. Năm 2000 ông ta còn
dùng đến lời thề long trọng nhờ thư ký Dziwisz chuyển tới ĐTC Gioan Phao-lô II
để khẳng định mình vô tội, mọi thứ cáo buộc toàn là cáo gian. Trong cuộc họp bầu
Đức Phan-xi-cô làm người kế vị thánh Phê-rô, ông ta đã quá tuổi hồng y cử tri
(80) nên không tham dự. Nhưng chuyện của ông ta vẫn là khôi u nhức nhối chưa
giái quyết xong.
Năm 2017 mới có được bằng
chứng không thể chối cãi, thế là ĐTC Phan-xi-cô thẳng tay xử ngay và tuyên án
năm 2018. Bao nhiêu vị Sứ Thần Tòa Thánh tiếp nối nhau ở Hoa kỳ từ thời ĐTC
Gioan Phao-lô II, không làm sáng tỏ được những lời cáo buộc. Trong đó có Carlo
Maria Vigano, người hiện nổi tiếng một cách đáng buồn : Đức Benedicto XVI
giao cho ông ta, trong nhiệm vụ Sứ Thần Tòa Thánh tại Hoa Kỳ, điều tra… ông ta
cũng ậm ờ cho qua. Hết nhiệm kỳ và quá tuổi, ông ta ở lại nghỉ hưu ở Hoa Kỳ.
Khi ĐTC Phan-xi-cô ra tay rồi thì ông ta mượn gió bẻ măng lấp tội mình, cả gan đòi
ĐTC Phan-xi-cô từ chức vì ông ta đã báo cáo mà bao che bỏ qua… Đức Hồng Y
Ouellet, bộ đặc trách Giám Mục đã lập tức vạch mặt ông ta. Từ đó đến nay ông ta
chui lủi đâu đó bên Mỹ, tiếp tục dùng mọi
cơ hội tấn công ĐTC Phan-xi-cô và làm mướn không công cho tổng thống Trump mà
ông ta tôn thờ như vị cứu tinh Thiên Chúa sai cứu nước Mỹ và Giáo Hội Mỹ. Chờ
xem khi Tòa Thánh truy trách nhiệm các vị đã bao che cho McCarrick, trong đó có
đích danh Vigano, xem ông ta đã ngậm bao nhiêu đô-la của McCarrick.
Đừng ai ngạc nhiên, vì
trong Mười Hai Tông Đồ đã có một ông bán Chúa với giá 1/10 chai dầu thơm hạng
sang !! 20 thế kỷ sau… người ta tiến bộ hơn thời ông Giu-đa. Tạ ơn Chúa vì
Hội Thánh không gồm các thiên thần, nhưng gồm những con người bằng xương bằng
thịt… nhờ thế tôi mới được gia nhập ! Mỗi người hãy theo lời thánh Phao-lô
căn dặn : « Ai đang đứng, coi
chừng kẻo té » (1Cr 10,12).
*****
ÁP-RA-HAM, Tổ Phụ của những kẻ tin thờ Thiên Chúa (Rm 4,11)
Ông là
người chuyển cầu thứ nhất chúng ta gặp trong Sách Thánh. Thiên Chúa coi ông là bạn thân của Ngài (x. Is 41,8), nên không nỡ giấu ông điều
Ngài sắp làm cho các thành Gô-mô-ra và Sô-đô-ma (St 18,16-33) :
Từ nơi đó ba người kia đứng
dậy và nhìn xuống phía Xơ-đôm.
Ông Áp-ra-ham cùng
đi để tiễn khách. 17ĐỨC CHÚA phán : “Ta có nên giấu Áp-ra-ham điều Ta sắp làm chăng ? 18Áp-ra-ham sẽ trở thành một dân tộc lớn mạnh
và mọi dân tộc sẽ được chúc phúc nhờ nó. 19Thật vậy, Ta đã chọn nó, để nó truyền cho con cái nó và gia tộc
nó sau này phải giữ đường lối của ĐỨC CHÚA mà
thực hiện điều công minh chính trực ; như thế, ĐỨC
CHÚA sẽ làm cho Áp-ra-ham điều Người đã phán về nó.” 20ĐỨC CHÚA phán : “Tiếng kêu trách Xơ-đôm và Gô-mô-ra thật quá lớn ! Tội lỗi của chúng
quá nặng nề ! 21Ta phải xuống xem thật sự chúng có làm
như tiếng kêu trách đã thấu đến Ta không. Có hay không, Ta sẽ biết.”
Nghe Đức Chúa
nói đi kiểm chứng xem tiếng kêu trách có đúng không, ông Áp-ra-ham lập tức năn
nỉ chặn trước để Ngài tha cho các thành ấy, vì ông nghĩ chẳng lẽ hư 100% :
ĐỨC CHÚA còn đứng
lại với ông Áp-ra-ham. 23Ông lại gần và thưa : “Chẳng lẽ Ngài tiêu diệt người lành một
trật với kẻ dữ sao ? 24Giả như trong thành có năm mươi người
lành, chẳng lẽ Ngài tiêu diệt họ thật sao ? Chẳng lẽ Ngài không dung thứ cho
thành đó, vì năm mươi người lành trong đó sao ? 25Ngài làm như vậy, chắc không được đâu ! Giết chết người lành
một trật với kẻ dữ, coi người lành cũng như kẻ dữ, chắc không được đâu ! Đấng
xét xử cả trần gian lại không xét xử công minh sao ?” 26ĐỨC CHÚA đáp : “Nếu Ta tìm được trong
thành Xơ-đôm năm
mươi người lành, thì vì họ, Ta sẽ dung thứ cho tất cả thành đó.”
Đọc kỹ
cách lý luận của Áp-ra-ham, thật lý thú : thân mật, tế nhị nhưng thẳng thắn
nại tới bản chất của Thiên Chúa, mời Thiên Chúa suy nghĩ lại xem làm như thế có
đúng tư cách của Thiên Chúa là Đấng Xét xử cả trần gian không ? …
Thiên
Chúa đồng ý ngay. Ông Áp-ra-ham thấy mình “hố », liền mặc cả tiếp, lời lẽ
rất khiêm tốn, nhưng rất khéo léo, coi như trong túi không có đủ tiền để trả
như đã thỏa thuận, lỡ không có đủ 45 mà chỉ có 40 :
Ông Áp-ra-ham lại nói : “Mặc dầu con chỉ là thân
tro bụi, con cũng xin mạn phép thưa với Chúa : 28Giả như trong số năm mươi người lành lại thiếu mất năm, vì
năm người đó, Ngài sẽ phá huỷ cả thành sao ?” Chúa đáp : “Không ! Ta sẽ không
phá huỷ, nếu Ta tìm được bốn mươi lăm người.” 29Ông lại thưa một lần nữa : “Giả như trong thành tìm được bốn
mươi người thì sao ?” Chúa đáp : “Vì bốn mươi người đó, Ta sẽ không làm.”
Thiên
Chúa cũng chịu xí xóa ngay. Ông thấy có vẻ còn bớt được, xin tiếp. Bớt một chục
luôn, và từ năm chục ông lần lượt xuống tới một chục :
Ông nói : “Xin Chúa đừng giận, cho con nói tiếp :
Giả như ở đó có ba mươi người thì sao ?” Chúa đáp : “Nếu Ta tìm được ba mươi
người, Ta sẽ không làm.” 31Ông nói :
“Con xin mạn phép thưa với Chúa : Giả như tìm được hai mươi người thì sao ?”
Chúa đáp : “Vì hai mươi người đó, Ta sẽ không phá huỷ.” 32Ông nói : “Xin Chúa đừng giận, cho con nói một lần này nữa thôi : Giả như tìm được
mười người thì sao ?” Chúa đáp : “Vì mười người đó, Ta sẽ không phá huỷ Xơ-đôm.”
Ôi, uổng
quá Cụ Tổ ơi, sao Cụ không dám xin bớt tiếp ? Đành chờ khi lên gặp Cụ Tổ
ta sẽ hỏi cho rõ vậy. Trước mắt ta đành ghi nhận một bên là sự mạnh dạn và
khiêm tốn của Cụ Tổ, một bên là sự rộng rãi của Thiên Chúa… vì tình bạn hữu sẵn
sàng lấy giá tượng trưng ! Sau này ta sẽ thấy Thiên Chúa quả là « tình cho không biếu không, chớ nên mua
bán tình yêu », như lời một bài hát quen thuộc trước 1975.
Sau này
tác giả thánh vịnh sẽ bi quan hơn Cụ Tổ Áp-ra-ham:
Kẻ
ngu si tự nhủ : “Làm chi có Chúa Trời !”
Chúng đã ra hư đốn, làm những điều ghê tởm,
chẳng có một ai làm điều thiện.
2Từ trời cao, CHÚA nhìn xuống loài người, xem ai là kẻ có lương tri, biết kiếm tìm
Thiên Chúa. 3Người người đã lìa xa chính lộ, chỉ biết
theo nhau làm chuyện suy đồi,
chẳng có một ai làm điều thiện,dẫu một
người cũng không. (Tv
14,1-3 ; 52/53,1-4)
Thái độ
bi quan này khá phổ biến ngày nay. Nói một cách hồ đồ như thế, chẳng hóa ra người
than phiền cũng đứng trong hàng ngũ « chẳng một ai làm điều thiện » !!!
Phải chi, mỗi người có thể nói : « Xin Chúa đừng để con rơi vào số
đó ». Khi nghe Chúa Giê-su khẳng định : « Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã
tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với người sao ? Lẽ nào Người bắt họ chờ
đợi mãi ? Thầy nói cho an hem biết, Người sẽ mau chóng minh xét cho họ. »
Rồi thở dài : « Nhưng khi
Con Người đến, liệu Người còn thấy, lòng tin trên mặt đất nữa chăng ? »
(Lc 18,7-8), chúng ta cũng có xu hướng thở dài theo. Lẽ ra nỗi băn khoăn của
Chúa phải thúc đẩy chúng ta đáp lại một cách tích cực : « Chúa ráng
giữ con, để nếu Chúa đến hôm nay thì ít là còn một người chờ đợi
Chúa ! »
MÔ-SÊ, người trung gian
Ông Mô-sê
được Thiên Chúa chọn làm trung gian giữa Thiên Chúa với Pha-ra-ô và giữa Thiên
Chúa với dòng dõi Áp-ra-ham mà Chúa coi là dân của Chúa, để đưa dân ra khỏi
Ai-cập, dẫn tới núi của Chúa để Chúa lập giao ước với họ, rồi đưa họ vào Đất Hứa.
Một mình làm trung gian hai phía. Thiên Chúa trực tiếp chiến đấu với Pha-ra-ô,
còn ông phải một mình chiến đấu với dân của ông, vì họ cứng lòng tin, cho tới
khi được thấy ánh sáng của tự do bên kia biển, « toàn dân mới kính sợ Đức Chúa, tin vào Đức Chúa, tin vào ông Mô-sê, tôi
trung của Người » (Xh 14,31). Nhờ thế ông đã hiểu phần nào lòng dạ của
Thiên Chúa. Tôi nói phần nào thôi, vì chẳng bao lâu sau ông sẽ thấy ông vẫn còn
lỗi nhịp với trái tim của Thiên Chúa.
Ngày dân đã
vượt qua biển, thoát vó ngựa truy đuổi của đoàn quân Ai-cập vừa bị nước nhận
chìm đáy biển, tiếng hát hò vang dội, điệu trống nhảy múa tưng bừng hoan hỉ…
Nhưng tiếng ca, nhịp trống còn vọng vang chưa hết miền hoang địa mênh mông, cổ
họng đã ráo khô, chẳng còn hát được, tiếng rên của dạ dày trổi lên mạnh hơn cả
tiếng biển ầm ầm chôn sống đoàn quân truy đuổi... vùi lấp niềm vui ngày giải
thoát.
Tiếng ca
vui bỗng thành ca cẩm (x. Xh 15,24; 16,1-16),
niềm hân hoan bị tiếc nuối thế chân; niềm tin bị lung lay (14,31 ßà 17,1-7). Tất cả dẫn họ tới chỗ nổi loạn hai tháng sau đó
(x. Xh 32,1-6), rồi 20 năm sau, khi
đã đến bờ đất Hứa, họ nổi loạn nữa (x. Ds 14,1-12) khiến Đấng đã ra tay cứu họ như
thấy tiếc công, toan xóa sổ làm lại (x. Xh
32,7-10 ; Ds 14,12-19).
Mỗi lần ông
Mô-sê vội vàng can thiệp. Dân này bội bạc như thế thì lấy cớ gì mà van xin cho họ? Ông Mô-sê tìm được lý từ phía Thiên
Chúa (x. Xh 32,11-13; Ds 14, 13-19) và Thiên Chúa nhận lời ông
xin (x. Xh 32,14; Ds 14,20-25).
Lần
van xin thứ nhất:
Ông Mô-sê cố làm cho nét mặt ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ông, dịu lại. Ông thưa : “Lạy ĐỨC CHÚA, tại sao Ngài lại bừng bừng nổi giận với
dân Ngài, dân mà Ngài đã giơ cánh tay mạnh mẽ uy quyền đưa ra khỏi đất Ai-cập ? 12Tại sao người Ai-cập lại có thể rêu rao : Chính vì ác tâm mà Người đã đưa
chúng ra, để giết chúng trong miền núi và tiêu diệt chúng khỏi mặt đất
? Xin Ngài nguôi
cơn thịnh nộ và xin Ngài thương đừng hại dân Ngài. 13Xin Ngài nhớ đến các tôi tớ Ngài là Áp-ra-ham, I-xa-ác và Ít-ra-en ; Ngài đã lấy chính danh Ngài mà
thề với các vị ấy rằng : Ta sẽ làm cho dòng dõi các ngươi đông đúc như sao
trên trời, và sẽ ban cho dòng dõi các ngươi tất cả miền đất ấy, là miền đất Ta
đã hứa ; chúng sẽ được thừa hưởng miền đất ấy đến muôn đời.” (Xh
32,11-13)
Lần
van xin thứ hai:
Ông Mô-sê thưa với ĐỨC CHÚA: “Người Ai-cập đã nghe biết rằng Ngài đã dùng sức mạnh của Ngài mà đưa
dân này ra khỏi đất chúng. 14Và chúng đã kể lại việc
đó cho cư dân đất này. Dân đất này đã nghe biết rằng chính Ngài, ĐỨC CHÚA, Ngài ở giữa dân này, chính Ngài, ĐỨC CHÚA, Ngài cho họ được thấy Ngài tận mắt, rằng đám
mây của Ngài dừng trên họ, và Ngài đi trước họ ban ngày trong cột mây và ban
đêm trong cột lửa. 15Thế mà ĐỨC CHÚA lại
muốn giết cả dân này như giết một người! Các nước đã từng nghe danh tiếng Ngài
sẽ nói : 16‘Chính bởi vì ĐỨC CHÚA đã không thể đem dân ấy vào đất Người đã
thề ban cho chúng, mà Người đã hạ sát chúng trong sa mạc.’ 17Vậy giờ đây, xin Chúa Thượng của con biểu dương sức mạnh, như
Ngài đã phán : 18
Dân đất này đã nghe biết
rằng chính Ngài, ĐỨC CHÚA, Ngài ở giữa
dân này, chính Ngài, ĐỨC CHÚA, Ngài cho họ
được thấy Ngài tận mắt, rằng đám mây của Ngài dừng trên họ, và Ngài đi trước
họ ban ngày trong cột mây và ban đêm trong cột lửa. 15Thế mà ĐỨC CHÚA lại
muốn giết cả dân này như giết một người ! Các nước đã từng nghe danh tiếng Ngài
sẽ nói : 16‘Chính bởi vì ĐỨC CHÚA đã không thể đem dân ấy vào đất Người đã
thề ban cho chúng, mà Người đã hạ sát chúng trong sa mạc.’ 19Vậy xin Ngài tha thứ lỗi lầm của dân này
theo lượng cả ân nghĩa của Ngài, như Ngài đã từng chịu đựng dân này từ Ai-cập cho đến đây.” (Ds
14,13-16)
Lần
van xin thứ nhất, ông Mô-sê đưa ra hai lý do:
1/ nếu Thiên Chúa tiêu diệt
dân này thì người Ai cập sẽ nói gì?
12Tại sao người Ai-cập lại có thể rêu rao: Chính vì ác tâm mà Người đã
đưa chúng ra, để giết chúng trong miền núi và tiêu diệt chúng khỏi mặt đất
?
2/ Lời Thiên Chúa đã lấy chính
Danh Ngài mà thề với Áp-ra-ham...
13Xin Ngài nhớ đến các tôi tớ Ngài
là Áp-ra-ham, I-xa-ác và Ít-ra-en; Ngài
đã lấy chính danh Ngài mà thề với các vị ấy rằng: Ta sẽ làm cho dòng
dõi các ngươi đông đúc như sao trên trời, và sẽ ban cho dòng dõi các ngươi tất
cả miền đất ấy, là miền đất Ta đã hứa; chúng sẽ được thừa hưởng miền đất ấy đến
muôn đời.”
Lần
van xin thứ hai ông cũng đưa ra hai lý do:
1/ Lý do thứ nhất tương tự như
lần trước, nhưng trình bày theo bối cảnh mới : Dân đất này đã nghe biết rằng chính Ngài, ĐỨC CHÚA, Ngài ở giữa dân này, chính Ngài, ĐỨC CHÚA, Ngài cho họ được thấy Ngài tận mắt, rằng đám
mây của Ngài dừng trên họ, và Ngài đi trước họ ban ngày trong cột mây và ban
đêm trong cột lửa. 15Thế mà ĐỨC
CHÚA lại muốn giết cả dân này như giết một người ! Các nước đã từng
nghe danh tiếng Ngài sẽ nói: 16‘Chính
bởi vì ĐỨC CHÚA đã không thể đem dân
ấy vào đất Người đã thề ban cho chúng, mà Người đã hạ sát chúng trong sa mạc. (Ds 14,14-16)
2/ Lý do thứ hai: 19Vậy xin Ngài tha thứ lỗi lầm của dân này
theo lượng cả ân nghĩa của Ngài, như Ngài đã từng chịu đựng dân
này từ Ai-cập cho đến đây. (Ds
14,19)
Ông không nhắc lại lời hứa,
nhưng nêu lên thực tế: Thiên Chúa đã giữ
lời hứa với tổ tiên mà đưa dân ra khỏi ách nô lệ và chịu đựng họ suốt thời gian
qua. Yếu tố mới được nêu lên là lượng cả
ân nghĩa, dựa vào mạc khải mới về Danh Thiên Chúa ở núi Xi-nai sau khi
Mô-sê hành xử theo ý mình:
Đức Chúa ngự
xuống trong đám mây và đứng đó với ông. Người xưng danh Người là ĐỨC CHÚA.
6ĐỨC CHÚA đi
qua trước mặt ông và xướng : “ĐỨC CHÚA ! ĐỨC CHÚA ! Thiên
Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín, 7giữ
lòng nhân nghĩa với muôn ngàn thế
hệ, chịu đựng lỗi lầm, tội ác và tội lỗi, nhưng không bỏ qua điều gì, và trừng
phạt con cháu đến ba bốn đời vì lỗi lầm của cha ông.”
Thiên Chúa không bỏ qua điều
gì và sẽ trừng phạt..., nhưng giữ lòng
nhân nghĩa, chịu đựng lỗi lầm, tội ác và tội lỗi muôn ngàn thế hệ cơ! Vì như cha mẹ răn đe con: “Lần sau mà
còn như vậy là bố đánh đấy...”, nhưng bao giờ là lần sau? Chờ đấy!...
Vậy thì lời Thiên Chúa đã lấy
Danh Ngài mà thề với Áp-ra-ham và các tổ phụ được đẩy lên một nấc tới chính Danh của Ngài mà Ngài mới mạc khải ở
núi Xi-nai.
*****
Đến đây chúng ta có thể nhận
ra một điều mới. Ông Mô-sê suy nghĩ và thưa với Thiên Chúa, nếu Chúa tiêu diệt
dân này thì Người Ai cập sẽ nói sao... dân cư Ca-na-an sẽ nói sao, ông lại nhắc
tới Danh mà Thiên Chúa tỏ cho ông ở núi Xi-nai khi đến ban lại hai bia Chứng Ước
cho ông, vì ông đã đập vỡ hai bia Thiên Chúa trao, như thể ông tự ý tuyên bố
Giao Ước đã vỡ. Thiên Chúa đâu có rút lại Giao Ước đã ban, vì đó chỉ là mở rộng
Giao Ước với Ap-ra-ham đến con cháu của ông như Ngài đã hứa. Bởi vậy Thiên Chúa
không triệu tập dân lại trước núi nhưng chỉ kêu một mình ông Mô-sê lên núi để mạc
khải cho ông và nhắc lại Luật Giao ước đã ban cho dân để ông tự tay tạc vào bia
đá, làm bia Chứng Ước cho dân giữ lại mãi.
Khi Thiên Chúa gọi ông, ông đã
xin biết Danh của Ngài, Ngài đã cho ông Danh Tuyệt Đối “TA LÀ” và Danh theo
Giao Ước: “THIÊN CHÚA CỦA ÁP-RA-HAM, I-XA-ÁC VÀ GIA-CÓP”, đồng thời truyền dùng
Danh theo Giao Ước mà gọi, để luôn nhớ rằng Thiên Chúa đã sai ông đi và đã cứu
dân, không phải là Thiên Chúa ngự trên cao, nhưng là Thiên Chúa của
Giao Ước, luôn ở với họ như đã ở với tổ tiên họ.
Nay ông đã nhận ra mình lỗi nhịp
tim với Thiên Chúa, đã tỏ ra chưa biết Thiên Chúa và khiêm tốn xin: “Nếu
quả thật con đã được nghĩa với Ngài, xin khấng tỏ cho con biết đường lối của
Ngài, để con biết Ngài, và được nghĩa với Ngài” (Xh
33,13). Thiên Chúa vẫn giữ ông lại để phục vụ chương trình của Chúa thực hiện lời
hứa với Áp-ra-ham, nên Thiên Chúa cho ông biết đường lối của Thiên Chúa, đường
lối ấy nằm ngay trong Danh của Thiên Chúa. Ông đã nghe Danh Thiên Chúa mà chưa
biết “Danh” ấy bao hàm những gì, nên vẫn chưa phải là biết Thiên Chúa. Lời cầu
xin của ông đích đáng, Thiên Chúa đã ban điều ông xin cho ông, và hai mươi năm
sau ông đã biết ứng dụng ơn mạc khải kia.
Ông không còn dám tự tiện ra tay như ở núi Xi-nai 20 năm trước (x. Xh 32,15-29).
Thiên
Chúa đã lấy chính Danh Người mà thề, nên tất cả những gì Ngài làm để thực
hiện lời thề hứa đều biểu lộ Danh Ngài.
*****
DANH THIÊN CHÚA TRỌN VẸN NƠI ĐỨC GIÊ-SU
Verbum caro factum est
huios, filius : con -
momogenes,unigenitus (Ga 1,1.14) : Con Một - prototokos,primogenitus (Cl
1,15): trưởng tử
Logos, verbum : Lời//
eikôn, imago : Hình ảnh //
pleroma, plenitudo : Viên mãn (Cl
1,19)//apaugasma tes doxes, splendor gloriae.
To phos to alethinon: lux vera : ánh sáng thật
(Ga 1,9)
Apaugasmates
doxes kai character tes hypostaseos autou,
splendor gloriae : phản ảnh vẻ huy hoàng, hình ảnh trung thực.
Ngài
đến làm người để kể cho chúng ta biết Chúa Cha và là hiện thân Tình Yêu của
Chúa Cha cho chúng ta. Ngài chuyển cầu cho chúng ta cả khi tội lỗi của chúng ta
đã đóng đinh ngài vào thập giá. Tin Mừng thứ tư cho chúng ta thấy rõ lý do Ngài
dựa vào là VINH QUANG CỦA CHA. Ngài đã ban DANH CỦA CHA cho chúng ta và dựa vào
đó mà chuyển cầu cho chúng ta. Danh của THIÊN CHÚA là TÌNH YÊU:
“Phần con, con đã tôn vinh Cha ở dưới đất,
khi hoàn tất công trình Cha đã giao cho con làm. 5Vậy,
lạy Cha, giờ đây, xin Cha tôn vinh con bên Cha : xin ban cho con vinh quang mà
con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian. 6Những kẻ Cha
đã chọn từ giữa thế gian mà ban cho con, con đã cho họ biết danh Cha. Họ
thuộc về Cha, Cha đã ban họ cho con, và họ đã tuân giữ lời Cha
“Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ
trong danh Cha mà Cha đã ban cho con, để họ nên một như chúng ta.12Khi còn ở với
họ, con đã gìn giữ họ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con. Con đã canh
giữ, và không một ai trong họ phải hư mất. (Ga
17,4-6.11-12)
Chúa
Giê-su dạy chúng ta biết dựa vào đâu mà cầu xin với Chúa Cha: Thật, Thầy bảo thật anh em : Anh em
mà xin Chúa Cha điều gì, thì Người sẽ ban cho anh em nhân danh Thầy. 24Cho đến
nay, anh em đã chẳng xin gì nhân danh Thầy. Cứ xin đi, anh em sẽ được,
để niềm vui của anh em nên trọn vẹn. (Ga 16,24)
Hội
Thánh đã ghi nhận bí quyết này và luôn cầu nguyện “nhân danh Chúa Giê-su”.
Chúng ta tôn vinh Thiên Chúa cũng nhờ danh Chúa Giê-su Ki-tô, cầu xin cũng nhờ
Danh Chúa Giê-su Ki-tô, cầu xin cho minh hay chuyển cầu cho người khác cũng nhờ
Danh Chúa Giê-su Ki-tô.
Trong Tin Mừng Nhất Lãm, Mát-thêu và Lu-ca cho
chúng ta lời kinh Chúa Giê-su dạy, phần đầu trong Mt 6,9-10
“Vậy, anh em hãy cầu
nguyện như thế này :
‘Lạy Cha chúng con là Đấng
ngự trên trời, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển,10 triều đại Cha mau đến, ý Cha
thể hiện dưới đất cũng như trên trời’
Ba yếu tố chung quy xoay quanh Danh Cha. Người Do Thái mở đầu cầu
nguyện với ba lần “Chúc Tụng ‘Thánh Danh’
Chúa của chúng ta”. Danh Cha Cả Sáng khi mọi người sống dưới quyền Cha và
thi hành Ý Cha.
Chúc tụng rồi thì xin: phần
lương thực hàng ngày để sống, như xưa Thiên Chúa ban man-na hàng ngày trong
hoang địa, ngày nào lượm đủ ăn ngày đó, trừ ngày thứ sáu lươm gấp đôi để thứ
bảy nghỉ.
Sống làm gì nếu không được
nghĩa cùng cha, mà sai lỗi hoài nên phải xin tha hoài; nhưng không thể
xin Cha tha nếu chính mình không chịu tha cho anh em.
Sự dữ (thần dữ, Xa-tan) luôn
rình rập, cám dỗ như đã cám dỗ tổ tiên trong Vườn Địa Đàng, chúng ta đâu có
mạnh hơn tổ tiên xưa, nên phải xin Cha gìn giữ cho khỏi sa ngã, và xin cứu cho
khỏi tay Xa-tan.
Tất cả là vì sáng Danh Cha, xin
đừng để chúng con làm ô Danh Cha...
***
Chuyển
cầu hay cầu xin cho người khác, cho cả Hội Thánh, đã có từ ngày đầu, khi các
môn đệ tụ họp quanh Thân Mẫu Chúa Giê-su chờ đón Thánh Thần. Sau khi hai ông
Phê-rô và Gioan bị bắt rồi được tha về, cả cộng đoàn cầu nguyện:
Được thả về, hai ông đến
với các anh em và thuật lại mọi điều các thượng tế và kỳ mục đã nói với hai
ông. 24Nghe vậy, họ đồng tâm nhất trí cất tiếng lên cùng Thiên Chúa :
“Lạy Chúa, Ngài là Đấng tạo
thành trời đất với biển khơi cùng muôn loài trong đó ; 25Ngài là Đấng đã nhờ Thánh
Thần, dùng miệng tổ phụ chúng con là Đa-vít, tôi trung của Ngài, mà phán
: Sao chư dân lại ồn ào náo động,
sao vạn quốc dám bày kế viển vông ? 26Vua chúa trần gian cùng nổi dậy, vương hầu khanh tướng rập mưu
đồ, chống lại Đức Chúa, chống lại Đấng Người đã xức dầu phong vương p.
27“Đúng vậy, Hê-rô-đê, Phong-xi-ô Phi-la-tô, cùng
với chư dân và
dân Ít-ra-en đã toa rập trong
thành này, chống lại tôi
tớ thánh của Ngài là Đức Giê-su, Đấng Ngài đã xức dầu. 28Như thế họ đã thực hiện tất cả những gì quyền năng và ý muốn của
Ngài đã định trước. 29Giờ đây, lạy Chúa, xin để ý đến những lời ngăm đe của họ, và cho
các tôi tớ Ngài đây được nói lời Ngài với tất cả sự mạnh dạn. 30Xin giơ tay chữa
lành, và thực hiện những dấu lạ điềm thiêng, nhân danh tôi tớ thánh của Ngài là
Đức Giê-su.” 31Họ cầu nguyện xong, thì nơi họ họp nhau rung chuyển; ai nấy đều
được tràn đầy Thánh Thần và bắt đầu mạnh dạn nói lời Thiên Chúa. (Cv 4, 23-31)
Trong thư Ê-phê-sô Thánh
Phao-lô cũng xin các tín hữu cầu nguyện cho ngài:
Anh em
cũng hãy cầu xin cho tôi nữa, để khi tôi mở miệng nói, thì Thiên Chúa ban lời
cho tôi, hầu tôi mạnh dạn loan báo mầu nhiệm của Tin Mừng; 20tôi là sứ giả của Tin Mừng này cả khi tôi đang bị xiềng xích. Anh em hãy
cầu xin cho tôi để khi rao giảng Tin Mừng tôi nói năng mạnh dạn, như bổn phận
tôi phải nói. (6,19-20).
Các tông đồ đã nhận phần “chuyên
lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa”. Thánh Phao-lô gợi ý rằng việc
phục vụ Lời Thiên Chúa là bổn phận của tất cả công đoàn, các Tông Đồ là những
sứ giả trực tiếp công bố, còn mọi người phải cầu nguyện để các sứ giả được mạnh
dạn...
Điều này càng đúng và khẩn thiết hơn trong thời đại chúng ta,
khi Lời Thiên Chúa bị bao nhiêu tiếng ồn ào phủ lấp, và những phản chứng do
chính các người có nhiệm vụ rao giảng cũng như các tín hữu gây ra, vì không
sống đúng như Lời mình đã nhận, vô hiệu hóa lời rao giảng. Các phương tiện
truyền thông săn lùng và phóng đại những phản chứng, biến thành công cụ mạnh
nhất để triệt hạ Hội Thánh và chế diễu lời rao giảng.
Từ khi có đời sống tu trì, các tu sĩ là những người trợ giúp
không thể thiếu của bổn phận rao giảng Tin Mừng, bằng đời sống chứng tá và bằng
lời cầu nguyện cho Hội Thánh. Các tu sĩ sống ơn gọi tông đồ phải kiêm cả hai,
nên nhiều vị sáng lập mới như Mẹ Tê-rê-sa, lập luôn hai ngành hoạt động và
chiêm niệm để bổ túc cho nhau. Thánh I-nha-xi-ô thì đòi con cái phải là người “chiêm
niệm trong hoạt động”, nghĩa là kết hiệp với Thiên Chúa trong mọi sự, làm mọi
sự theo ý Thiên Chúa và để làm vinh danh Thiên Chúa hơn mãi; đồng thời ngài
cũng “hợp đồng với các tu sĩ Sác-tơ-rơ” là những người sống chiêm niệm triệt để
nhất, hỗ trợ mãi mãi cho ngài và con cái sẵn sàng đi bất cứ nơi nào trên mặt
đất này theo lệnh Đức Thánh Cha, và phục vụ hết mình cho Vinh Danh Thiên Chúa
hơn mãi vì chẳng bao giờ đạt giới hạn, chẳng bao giờ tới đỉnh.
Khi ra mắt lần đầu, ngay khi vừa được bầu chọn, Đức Thánh Cha
Phan-xi-cô ngài đã khiêm tốn cúi đầu xin các tín hữu có mặt ở quảng trường
Thánh Phê-rô cầu nguyện cho ngài trước khi ban phép lành cho toàn thể Dân Chúa
theo thói quen xưa nay. Mỗi ngày chúa nhật ngài cũng kết thúc buổi đọc Kinh
Truyền Tin với lời nhắc: “xin đừng quên
cầu cho tôi”.
Đến đây thì ta có thể nhận ra Chúa Giê-su là người con hiếu thảo
đã ôm lấy Cha để xin Cha tha cho tất cả anh em của mình, và Chúa Cha là người
Cha đã vạch lưng mình ra chịu đòn trong cuộc Thương Khó của Chúa Giê-su, Con
Một Thiên Chúa đã xuống thế làm người, trở nên anh em huyết nhục của chúng ta,
vì Cha ở trong THẦY, và THẦY ở trong Cha (x. Ga 10,38; 14,9-11), Cha Ta và Ta, chúng ta là một (10,30) ; tôn
vinh con là tôn vinh Cha, xúc phạm con là xúc phạm Cha.
Quỳ trước Chúa Giê-su trên thập giá, chúng ta có thể mượn lời
thánh Phan-xi-cô Xavie tâm sự với Chúa:
Lạy Thiên Chúa của
con, con yêu mến Chúa! Con yêu mến Chúa không phải vì trông Chúa cứu con; cũng
không phải vì sợ không yêu thì Chúa phạt trong lửa đời đời.
Lạy Chúa Giê-su
của con, Chúa đã ôm trọn lấy con trên thập giá; Chúa
chịu đinh sắt, lưỡi đòng và bao nhiêu sỉ nhục; vô vàn đau khổ, mồ hôi và lo buồn,
cả cái chết nữa: Chúa chịu tất cả vì con, thay cho con là kẻ có tội.
Ôi lạy Chúa
Giê-su, Chúa yêu mến hết tình, sao con lại không yêu Chúa?
Con yêu Chúa
không phải để Chúa cứu và đưa con về trời hay vì sợ Chúa luận phạt con đời đời.
Nhưng con yêu Chúa và con sẽ yêu Chúa như Chúa đã yêu con chỉ vì Chúa là
Vua của con và chỉ vì Chúa là Thiên Chúa của con. AMEN
Giê-ru-sa-lem, ngày lễ
thánh Stanislas Kostka 2020
Linh mục
Giuse Nguyễn công Đoan, S.J