CHƯƠNG
III
Giáo
Lý Viên
110. “Trong việc xây dựng thân thể
Đức Kitô, có sự tham gia của nhiều chi thể với những phận vụ khác nhau. Chỉ có
một Thần Khí ban những ân huệ khác nhau vì lợi ích của Hội Thánh theo sự sung
mãn của Ngài và tùy nhu cầu của các tác vụ” (LG 7). Nhờ các bí tích Rửa
Tội và Thêm Sức, các Kitô hữu được tháp nhập vào Đức Kitô và thông phần vào chức
năng của Người như tư tế, ngôn sứ và vương giả (x. LG 31, AA 2),
họ là những nhân chứng cho Tin Mừng, rao giảng Tin Mừng bằng lời nói và gương
sáng của đời sống Kitô hữu; nhưng một số người “cũng có thể được gọi để cộng
tác với các Giám Mục và các linh mục trong việc thực thi thừa tác vụ Lời Chúa”. Trong vô số những thừa tác vụ và việc phục vụ
mà với chúng Hội Thánh thực thi sứ vụ Phúc Âm hóa của mình, “thừa tác vụ dạy
giáo lý” chiếm một vị trí quan trọng,
không thể thiếu được cho việc tăng trưởng đức tin. Thừa tác vụ này cung cấp một
dẫn nhập vào đức tin, và cùng với thừa tác vụ phụng vụ, sinh ra con cái Thiên
Chúa trong cung lòng Hội Thánh. Cho nên ơn gọi đặc biệt của giáo lý viên có nguồn
gốc trong ơn gọi chung của Dân Thiên Chúa, được gọi để phục vụ kế hoạch cứu độ
của Thiên Chúa thay mặt cho nhân loại.
111. Toàn thể cộng đồng Kitô hữu chịu
trách nhiệm về tác vụ dạy giáo lý, nhưng mỗi người tùy theo địa vị riêng biệt của
mình trong Hội Thánh: các thừa tác viên có chức thánh, những người được thánh
hiến, các tín hữu giáo dân. “Qua tất cả những người này và các chức năng khác
nhau của họ, thừa tác vụ dạy giáo lý trao lại Lời Chúa một cách trọn vẹn và làm
chứng cho thực tại của Hội Thánh. Nếu thiếu một trong những hình thức này, việc
dạy giáo lý sẽ mất đi một điều gì đó của sự phong phú của nó cũng như một phần
ý nghĩa của nó”. Giáo lý viên thuộc về một cộng
đồng Kitô hữu và là sự thể hiện của cộng đồng ấy. Việc phục vụ của họ được sống
trong một cộng đồng vốn là vai chính trong việc cung cấp và đồng hành trong đức
tin.
112. Giáo lý viên là một Kitô hữu
nhận được một ơn gọi đặc biệt từ Thiên Chúa, mà khi được chấp nhận trong đức
tin, trao cho họ quyền phục vụ việc truyền thụ đức tin và nhiệm vụ dẫn người
khác vào đời sống Kitô hữu. Những lý do trực tiếp tại sao một giáo lý viên được
gọi để phục vụ Lời Chúa thì rất khác nhau, nhưng tất cả chỉ là những phương tiện
mà Thiên Chúa dùng để mời gọi người ta phục vụ Ngài qua Hội Thánh. Qua ơn gọi
này, giáo lý viên trở thành một người tham gia vào sứ vụ giới thiệu các môn đệ
vào mối liên hệ con thảo với Chúa Cha của Chúa Giêsu. Tuy nhiên, vai chính thật
sự của tất cả việc dạy giáo lý chân chính là Chúa Thánh Thần, Đấng nhờ sự kết hợp
sâu xa với Đức Chúa Giêsu Kitô, được mỗi giáo lý viên nuôi dưỡng, ban cho các nỗ
lực của con người kết quả trong hoạt động dạy giáo lý. Hoạt động này được thực thi trong lòng Hội
Thánh: giáo lý viên là một nhân chứng cho Truyền Thống sống động của Hội Thánh
và là một người trung gian làm cho việc đưa một môn đệ mới của Đức Kitô vào
Thân Thể Hội Thánh của Người được dễ dàng.
113. Nhờ đức tin và việc xức dầu
trong bí tích Rửa Tội, khi hợp tác với Huấn Quyền của Đức Kitô và như một người
tôi tớ của hành động của Chúa Thánh Thần, giáo lý viên là:
a. Một nhân chứng của đức tin và
người gìn giữ kỷ niệm về Thiên Chúa; khi cảm nghiệm được sự tốt lành và chân lý của
Tin Mừng trong cuộc gặp gỡ với con người Đức Kitô của mình, giáo lý viên giữ gìn,
nuôi dưỡng và làm chứng cho đời sống mới phát sinh từ cuộc gặp gỡ ấy, và trở
thành một dấu chỉ cho những người khác. Đức tin chứa đựng kỷ niệm về lịch sử của
Thiên Chúa với nhân loại. Giữ kỷ niệm này, khơi dậy nó trong những người khác,
và sử dụng nó trong việc rao giảng là ơn gọi đặc biệt của giáo lý viên. Chứng từ
của đời sống họ là điều cần thiết cho sự đáng tin cậy của sứ vụ. Nhận ra sự yếu
đuối của chính mình trước lòng thương xót của Thiên Chúa, giáo lý viên không ngừng
là dấu chỉ của niềm hy vọng cho anh chị em mình.
b. Một thầy giáo và một nhà thần
bí
giới thiệu người khác vào mầu nhiệm của Thiên Chúa, được tỏ lộ trong mầu nhiệm
Vượt Qua của Đức Kitô; như một hình ảnh của Chúa Giêsu, vị Tôn Sư, giáo lý viên
có nhiệm vụ kép là thông truyền nội dung đức tin và dẫn người khác vào chính mầu
nhiệm đức tin. Giáo lý viên được mời gọi để mở ra cho những người khác chân lý
về con người và ơn gọi cuối cùng của họ, truyền thông sự hiểu biết về Đức Kitô và
đồng thời giời thiệu họ vào những khía cạnh khác nhau của đời sống Kitô hữu,
bày tỏ mầu nhiệm cứu độ chứa đựng trong kho tàng đức tin và được phục hồi trong
phụng vụ của Hội Thánh.
c. Một người đồng hành và một nhà
giáo dục
của những người được Hội Thánh trao phó: giáo lý viên là chuyên gia về nghệ thuật
đồng hành, có tài chuyên môn về giáo dục,
có khả năng lắng nghe và hiểu động năng của sự tăng trưởng của con người, trở
thành người bạn đồng hành với lòng kiên nhẫn và ý thức về sự tiệm tiến, ngoan
ngoãn với tác động của Chúa Thánh Thần và qua một tiến trình đào luyện giúp cho
anh chị em mình trưởng thành trong đời sống Kitô hữu và cuộc hành trình hướng về
Thiên Chúa. Giáo lý viên, một chuyên gia về khoa nhân văn, biết niềm vui và hy
vọng của con người, những ưu tư và âu lo của họ (x. GS 1) cùng có khả
năng đặt chúng trong tương quan với Tin Mừng của Chúa Giêsu.
2. GIÁM MỤC NHƯ GIÁO LÝ VIÊN ĐẦU TIÊN
114. “Giám Mục là nhà rao giảng Tin
Mừng đầu tiên bằng lời nói và chứng từ của đời sống mình”, và là người có trách nhiệm
chính về việc dạy giáo lý trong Giáo phận, có chức năng chính, cùng với việc giảng
dạy, cung cấp huấn giáo và những hình thức dạy giáo lý khác nhau cần thiết cho
các tín hữu theo những nguyên tắc và quy định được Toà Thánh ban hành. Giám Mục,
ngoài sự cộng tác quý giá của các văn phòng của giáo phận, có thể cậy vào sự
giúp đỡ của các chuyên gia về thần học, sư phạm giáo lý, và các khoa học nhân
văn, cũng như các trung tâm đào luyện và nghiên cứu về việc dạy giáo lý. Quan
tâm của Giám Mục về hoạt động dạy giáo lý thúc đẩy ngài:
a. Dấn thân vào việc dạy giáo lý
bằng cách tham gia trực tiếp vào việc thông truyền Tin Mừng và giữ cho kho tàng
đức tin được nguyên vẹn;
b. Đảm bảo việc hội nhập văn hóa
của đức tin trong lãnh thổ của mình bằng cách dành ưu tiên cho việc dạy giáo lý
một cách hiệu quả;
c. Khai triển một kế hoạch dạy
giáo lý bao hàm toàn diện để phục vụ nhu cầu của Dân Thiên Chúa và phù hợp với
các kế hoạch của giáo phận và của Hội Đồng Giám Mục;
d. Cho thấy rõ và giữ “một lòng
say mê dạy giáo lý thật sư, một say mê được hiện thân trong một tổ chức thích
đáng và hiệu quả, có đầy đủ nhân sự, phương tiện và công cụ cũng như nguồn tài
chánh cần thiết cho việc hoạt động”;
e. Đảm bảo rằng “các giáo lý viên
được đào luyện cách đầy đủ cho chức năng của họ ngõ hầu họ quen thuộc cách hoàn
toàn với tín lý của Hội Thánh và có kiến thức cả về lý thuyết lẫn thực hành về
các luật tâm lý và các phương pháp sư phạm” (CD 14);
f. Chú ý đến chất lượng của các
văn bản và công cụ để dạy giáo lý.
Giám
Mục phải cảm thấy sự cấp bách, ít ra là trong các thời kỳ nhạy cảm hơn của năm
phụng vụ, đặc biệt trong Mùa Chay, mời gọi Dân Thiên Chúa đến nhà thờ chánh tòa
để dạy giáo lý cho họ.
3. LINH MỤC TRONG VIỆC DẠY GIÁO LÝ
115. Linh mục, là cộng sự viên đầu tiên của Giám Mục
và qua sự ủy nhiệm của ngài, trong khả năng là nhà giáo dục đức tin (x. PO 6),
có nhiệm vụ làm sống lại, điều hợp và hướng dẫn hoạt động dạy giáo lý của cộng
đồng đã được trao phó cho mình. “Việc tham chiếu chức năng
giáo huấn của Giám Mục trong chức tư tế của Giáo phận và việc tuân theo các hướng
dẫn mà mỗi Mục Tử và Hội Đồng Giám Mục ban hành vì ích lợi cho các tín hữu, là
những yếu tố mà các linh mục phải sử dụng trong hoạt động dạy giáo lý của
mình”. Các linh mục phân định và
cổ võ ơn gọi của các giáo lý viên.
116. Vị linh mục của giáo xứ hay
cha xứ là giáo lý viên hàng đầu trong cộng đồng giáo xứ. Các nhiệm vụ thích hợp
với các cha xứ, và các linh mục nói chung là:
a. Tận tâm tận lực với khả năng
và quảng đại dấn thân vào việc dạy giáo lý cho các tín hữu được trao phó cho
mình chăm sóc mục vụ, tận dụng mọi cơ hội có được từ đời sống giáo xứ và môi
trường văn hóa xã hội để rao giảng Tin Mừng;
b. Chú ý đến sự liên kết giữa việc
dạy giáo lý, phụng vụ và việc bác ái, đặc biệt tận dụng ngày Chúa Nhật như ngày
của Chúa và của cộng đồng Kitô hữu;
c. Khơi dậy ý thức trách nhiệm về
việc dạy giáo lý trong cộng đồng và phân định những ơn gọi đặc biệt về vấn đề
này; tỏ ra biết ơn cho và cổ võ việc phục vụ của các giáo lý viên;
d. Quan tâm đến việc tổ chức dạy
giáo lý, sát nhập vào kế hoạch mục vụ của cộng đồng, dựa vào sự trợ giúp của
các giáo lý viên. Thật tốt cho các giáo lý viên nếu được kinh nghiệm những giai
đoạn khác nhau của việc phân tích, soạn thảo kế hoạch, chọn lựa tài liệu, áp dụng
và lượng giá;
e. Đảm bảo một mối dây liên hệ chặt
chẽ giữa việc dạy giáo lý trong cộng đoàn của các ngài và chương trình mục vụ của
Giáo phận, tránh tất cả mọi hình thức chủ quan trong việc thi hành tác vụ
thánh;
f. Như giáo lý viên của các giáo
lý viên, chăm lo cho việc đào luyện họ, tận tâm với việc hết sức quan tâm đến
công tác này và đồng hành với họ trong việc trưởng thành về đức tin của họ; hơn
nữa, coi trọng nhóm giáo lý viên như một địa điểm của sự hiệp thông và đồng
trách nhiệm cần thiết cho việc đào luyện chân chính.
4. PHÓ TẾ VÀ VIỆC DẠY GIÁO LÝ
117. Việc phục vụ (diconia) Lời
Chúa, cùng với việc phục vụ phụng vụ và việc bác ái, là việc phục vụ mà các phó
tế thực thi để làm cho Đức Kitô, Đấng vì yêu mà đã trở nên một tôi tớ (x. Lc
22:27; Phl 3:5-11), hiện diện trong cộng đoàn. Các phó tế, ngoài việc được phép
giảng, và:
“Để giúp đỡ các tín hữu
Kitô giáo lớn lên trong sự hiểu biệt về đức tin của họ trong Đức Kitô, để củng
cố nó bằng việc lãnh nhận các bí tích và để diễn tả nó trong gia đình, nghề
nghiệp và đời sống xã hội”, được mời gọi chú ý nhiều đến “việc dạy giáo lý cho
các tín hữu ở mọi giai đoạn của đời sống Kitô hữu của họ”.
Các phó tế phải tham
gia vào các chương trình dạy giáo lý của Giáo phận hay của giáo xứ, trên hết là
những chương trình liên quan đến những sáng kiến liên hệ với việc rao giảng Tin
Mừng. Họ cũng được gọi để rao giảng “Lời Chúa trong đời sống nghề nghiệp của họ,
hoặc một cách tỏ tường hoặc chỉ bởi sự hiện diện tích cực của họ ở những nơi mà
dư luận quần chúng được hình thành và những quy luật đạo đức được áp dụng – như
các dịch vụ xã hội hoặc các tổ chức vận động cho quyền lợi của gia đình hay sự
sống”.
118. Vai trò của các phó tế trong
việc dạy giáo lý thật đặc biệt quan trọng trong một vài lãnh vực, nhất là đời sống
bác ái và gia đình. Hoạt động của họ có thể được thực thi giữa các tù nhân, bệnh
nhân, những người già cả, những thanh
thiếu niên thiếu may mắn, những người di cư, vv…. Các phó tế có nhiệm vụ khuyến
khích những người ở trong các hoàn cảnh này đang trải qua cảnh nghèo túng sẵn sàng
tham gia các sinh hoạt giáo lý của cộng đồng Hội Thánh cũng như khuyến khích
các tín hữu thuộc mọi lứa tuổi tham gia việc giáo dục thật sự trong đức ái. Hơn
nữa, các phó tề vĩnh viễn sống trong bậc hôn nhân được mời gọi cách đặc biệt vì
cách sống đặc thù của họ thành những nhân chứng đáng tin cậy của bí tích này. Họ,
với sự giúp đỡ của các bà vợ và con cái họ (nếu họ có con) có thể tham gia vào
việc dạy giáo lý cho các gia đình, và đồng hành trong tất cả những trường hợp cần
sự chú ý và nhạy cảm đặc biệt.
5. NHỮNG
NGƯỜI ĐƯỢC THÁNH HIẾN TRONG
VIỆC
PHỤC VỤ VIỆC DẠY GIÁO LÝ
119. Việc dạy giáo lý tiêu biểu cho
một khung cảnh đặc biệt cho việc tông đồ của những người được thánh hiến. Thực
ra, trong lịch sừ Hội Thánh, họ được kể vào số những người tận tâm nhất với việc
ra ngoài dạy giáo lý. Hội Thánh đặc biệt mời gọi những người được thánh hiến
vào hoạt động dạy giáo lý, trong đó sự đóng góp độc đáo và đặc biệt của họ
không thể được thay thế bằng các linh mục hay giáo dân. “Nhiệm vụ đầu tiên của
đời sống thánh hiến là làm cho người ta thấy rõ những kỳ công đã được Thiên
Chúa thực hiện trong bản tính nhân loại mỏng manh của những người được gọi. Họ
làm chứng cho những kỳ công này không hoàn toàn bằng lời nói mà bằng ngôn ngữ
hùng hồn của một cuộc sống được biến đổi, có khả năng làm cho thế giới kinh ngạc”. Bài giáo lý đầu tiên làm
cho người ta chú ý là chính đời sống của người được thánh hiến, là những người
khi sống trọn bản chất triệt để của Tin Mừng, làm nhân chứng cho sự sung mãn mà
đời sống trong Đức Kitô làm cho thành khả thi.
120. Những giá trị đặc biệt của các
đoàn sủng của họ có thể thấy được khi một số người được thánh hiến lãnh nhận
nhiệm vụ dạy giáo lý. “Trong khi giữ nguyên đặc tính riêng của việc dạy giáo lý,
các đoàn sủng của các cộng đồng dòng tu khác nhau thể hiện công tác chung này
nhưng bằng những nhấn mạnh riêng của mình, thường thì với chiều sâu về tôn
giáo, xã hội và sư phạm lớn lao. Lịch sử của việc dạy giáo lý chứng tỏ sức sống
mà những đoàn sủng này đã mang đến cho hoạt động giáo dục của Hội Thánh”, trên hết với những người
thấm nhuần việc dạy giáo lý của họ với cách sống của họ. Hội Thánh tiếp tục rút
ra sức mạnh từ việc phục vụ của họ và chờ đợi trong hy vọng một sự dấn thân được
canh tân trong cách phục vụ việc dạy giáo lý.
6.
GIÁO LÝ VIÊN GIÁO DÂN
121. Qua sự có mặt của họ trong thế
gian, giáo dân cống hiến cho việc Phúc Âm hóa một phục vụ rất giá trị: chính đời
sống của họ như các môn đệ của Đức Kitô là một hình thức rao giảng Tin Mừng. Họ
tham gia vào mọi loại nghề nghiệp cùng với những người khác, thấm nhuần các thực
tại trần thế với tinh thần Tin Mừng: việc Phúc Âm hóa “mang một sắc thái riêng
và môt sức mạnh đặc biệt vì được thực hiện trong các hoàn cảnh bình thường của
trần thế” (LG 35). Giáo dân, qua việc làm chứng cho Tin Mừng trong những
bối cảnh khác nhau, có cơ hội giải thích các thực tại của đời sống theo Kitô
giáo, nói về Đức Kitô và những giá trị theo Kitô giáo, trình bày những lý do của
những chọn lựa của mình. Cách dạy giáo lý này, có thể nói là bộc phát và không chuẩn
bị trước, là điều rất quan trọng vì nó kết nối cách trực tiếp với chứng từ đời
sống của họ.
122. Ơn gọi của tác vụ dạy giáo lý
phát sinh từ bí tích Rửa Tội và được củng cố bởi bí tích Thêm Sức, mà qua cả
hai bí tích này, giáo dân thông phần vào sứ vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của
Đức Kitô. Thêm vào ơn gọi tông đồ chung, một số tín hữu cảm thấy được Thiên
Chúa gọi gánh vai trò làm giáo lý viên trong cộng đồng Kitô hữu, để phục vụ một
việc dạy giáo lý có tổ chức và cấu trúc hơn. Lời mời gọi cách cá nhân của Đức
Chúa Giêsu Kitô và mối liên hệ với Người là những động cơ thật sự của hoạt động
của giáo lý viên: “Từ sự hiểu biết yêu thương này về Đức Kitô nảy sinh ước ao
loan báo Người, “Phúc Âm hóa”, và dẫn đưa người khác đến chỗ “chấp nhận” đức
tin vào Đức Chúa Giêsu Kitô”. Hội Thánh nuôi dưỡng và biện phân ơn gọi thần
linh này và trao ban sứ vụ dạy giáo lý.
123. “Việc cảm thấy được gọi làm một
giáo lý viên và nhận được sứ vụ này từ Hội Thánh đạt được những mức độ dấn thân
khác nhau theo những đặc tính riêng của từng cá nhân. Đôi khi, giáo lý viên có
thể cộng tác trong tác vụ dạy giáo lý trong một thời gian giới hạn hay chỉ thỉnh
thoảng thôi, nhưng luôn luôn là một việc phục vụ có giá trị và một sự cộng tác
đáng giá. Tuy nhiên, tầm quan trọng của tác vụ dạy giáo lý đề ra rằng trong một
Giáo phận cần phải có một số tu sĩ và giáo dân được công khai nhìn nhận và dấn
thân thường trực vào việc dạy giáo lý, là những người, trong sự hiệp thông với
các linh mục và Giám Mục, cho việc phục vụ này của Giáo phận, một hình thức Hội
Thánh thích hợp với nó”.
Phụ
huynh, những tham dự viên tích cực vào việc dạy giáo lý
124. “Đối với các phụ huynh Kitô
giáo, sứ vụ giáo dục, như đã nói, là một sứ vụ bắt nguồn từ từ việc cộng tác của
họ vào hoạt động sáng tạo của Thiên Chúa, có một nguồn đặc biệt mới trong bí
tích Hôn Phối, là bí tích thánh hiến họ cách riêng để giáo dục về Kitô giáo cho
con cái họ”.
Các cha mẹ có đức tin, với gương sáng trong đời sống thường nhật của họ, có khả
năng hữu hiệu nhất trong việc thông truyền vẻ đẹp của đức tin Kitô giáo cho con
cái. “Việc giúp cho các gia đình gánh vai trò của họ như những tác nhân tích cực
của việc tông đồ gia đình đòi hỏi phải có ‘một nỗ lực Phúc Âm hóa và dạy giáo
lý trong gia đình’’’, Thách đố lớn nhất trong
tình trạng này là làm sao cho các cặp vợ chồng, các bà mẹ và người cha, trở
thành những người tích cực tham gia vào việc dạy giáo lý, để thắng vượt não trạng
ủy quyền là điều quá thông thường, mà trong đó, đức tin được dành riêng cho những
chuyên gia giáo dục tôn giáo. Đôi khi, não trạng này được nuôi dưỡng bởi những
cộng đoàn đã vật lộn với việc tổ chức việc dạy giáo lý đặt trọng tâm vào gia
đình, là điều phải được bắt đầu từ chính gia đình. “Hội Thánh được mời gọi hợp
tác với các phụ huynh qua những sáng kiến mục vụ thích hợp, trợ giúp họ trong
việc chu toàn sứ vụ giáo dục của họ”.
Các
cha mẹ đỡ đầu, cộng sự viên với phụ huynh
125. Trong cuộc hành trình khai tâm
vào đời sống Kitô hữu, Hội Thánh cần phải tái lượng giá căn tính và sứ vụ của
cha mẹ đỡ đầu, là những người nâng đỡ nỗ lực giáo dục của các phụ huynh. Nhiệm
vụ của họ là “chỉ cho các ứng viên cách thực thi Tin Mừng trong đời sống cá
nhân và xã hội, nâng đỡ các ứng viên trong những lúc ngần ngại và lo âu, làm
nhân chứng và hướng dẫn sự tiến triển của các ứng viên trong đời sống của những
người được rửa tội”. Chúng ta biết rằng việc
chọn cha mẹ đỡ đầu thường không được thúc đẩy bởi đức tin, nhưng dựa vào gia
đình hay các thói quen xã hội: điều này đóng góp không ít vào việc làm suy
thoái những nhân vật giáo dục này. Về trách nhiệm liên quan đến vai trò này, cộng
đồng Kitô hữu phải vạch ra, với sự phân định và tinh thần sáng tạo, những
phương thức giáo dục cho các cha mẹ đỡ đầu nhằm giúp họ tái khám phá ra hồng ân
đức tin và hồng ân thuộc về Hội Thánh. Những người được chọn vào vai trò này
thường cảm thấy được mời gọi đánh thức lại đức tin khi rửa tội của mình và bắt
đầu một cuộc hành trình dấn thân và làm nhân chứng được canh tân. Việc họ có thể
từ chối chấp nhận trách nhiệm này gây ra những hậu quả cho họ là những điều cần
phải được lượng giá bằng việc chăm sóc mục vụ lớn lao. Trong trường hợp thiếu vắng
những đòi hỏi khách quan để một người có thể thi
hành nhiệm vụ này (những đòi hỏi phải được nói rõ trong cuộc thảo luận trước
khi chọn lựa) với sự đồng ý của gia đình và theo sự phân định của các mục tử,
cha mẹ đỡ đầu có thể được chọn trong số những người làm mục vụ (giáo lý viên,
thầy cô giáo, những người tổ chức) là những người sống như nhân chứng đức tin
và sự hiện diện của Hội Thánh.
Việc phục vụ của ông bà để truyền thụ đức tin
126. Ngoài cha mẹ ra thì chính các
ông bà, trên hết là ở một số nền văn hóa, gánh vác một vai trò đặc biệt
trong việc truyền thụ đức tin cho những người còn rất trẻ. Thánh Kinh cũng trình bày
đức tin của các ông bà như nhân chứng cho các con cháu của họ (x. 2 Tm
1:5). “Hội Thánh đặc biệt chú ý đến các ông bà, nhìn nhận họ như một kho tàng
vĩ đại theo cả những quan điểm nhân loại và xã hội cũng như tôn giáo và tâm
linh”. Trước cuộc khủng hoảng về
gia đình, các ông bà, là những người thường bám rễ sâu hơn vào đức tin Kitô
giáo và có một quá khứ đầy kinh nghiệm, trở nên những điểm tham chiếu quan trọng.
Thực ra, thường thì nhiều người mắc nợ chính ông bà của mình trong việc khai mở
đời sống Kitô hữu của họ. Đóng góp của ông bà thành ra quan trọng trong việc dạy
giáo lý vì cả việc họ có thể dành nhiều thì giờ hơn với các cháu và việc họ có
khả năng khích lệ các thế hệ trẻ hơn với tình yêu thương đặc thù của họ. Các
kinh nguyện chuyển cầu và những bài hát ca ngợi của các ông bà nâng đỡ cộng đồng
trong công việc và những cuộc vật lộn của cuộc sống.
Đóng góp vĩ đại của phụ nữ trong việc dạy giáo
lý
127. Các phụ nữ
đóng vai trò quý giá trong các gia đình và trong các cộng đồng Kitô hữu, hiến dâng
việc phục vụ của mình như những bà vợ, những người mẹ, các giáo lý viên, các
nhân công và chuyên nghiệp. Họ có Đức Mẹ như một mẫu gương, “một mẫu gương của
tình yêu hiền mẫu, vốn phải là động lực của tất cả những ai cộng tác vào sứ mệnh
tông đồ của Hội Thánh để tái sinh con người” (LG 65). Với lời nói và
hành động của Người, Chúa Giêsu đã dạy những kẻ theo Người nhận ra giá trị của
các phụ nữ. Thực ra, Người muốn có họ với Người như các môn đệ (x. Mc
15:40-41) cùng trao phó cho bà Maria Mađalêna và các phụ nữ khác niềm vui được
công bối sự Phục Sinh của Người cho các Tông Đồ (x. Mt 28:9-10; Mc
16:9-10; Lc 24:8-9; Ga 20:18). Cũng vậy, Hội Thánh thời sơ khai
đã cảm thấy phải nhận các giáo huấn của Đức Kitô làm của mình và đón chào sự hiện
diện của các phụ nữ trong công việc Phúc Âm hóa như một món quà quý giá (x. Lc
8:1-3; Ga 4:28-29).
128. Như thế các cộng đồng Kitô hữu
được hứng khởi nhờ thiên tài của các phụ nữ để nhìn nhận các đóng góp của họ
trong việc thực thi đời sống mục vụ của Hội Thánh như thiết yếu và không thể
thiếu được. Dạy giáo lý là một trong những việc phục vụ này dẫn đến việc nhìn
nhận sự đóng góp vĩ đại mà các nữ giáo lý viên cống hiến. Họ là những người dấn
thân hết mình cho thừa tác vụ này với sự tận tâm, đam mê và chuyên nghiệp.
Trong đời sống của họ, họ hiện thân cho hình ảnh hiền mẫu, biết cách làm nhân
chứng, ngay cả trong những lúc khó khăn, cho sự dịu hiền và tận tâm của Hội
Thánh. Họ có khả năng thấu hiểu, với một sự nhạy cảm đặc biệt, gương của Chúa
Giêsu: phục vụ trong những việc nhỏ cũng như trong việc lớn như thái độ của những
người hiểu tường tận tình yêu mà Thiên Chúa đã dành cho nhân loại, và không thể
làm gì khác hơn là ban phát rộng rãi tình yêu ấy cho những người lân cận, chăm
sóc cho những con người và sự vật của thế giới.
129. Đánh giá cao sự nhạy cảm đặc
biệt của các phụ nữ trong việc dạy giáo lý không có nghĩa là che lấp tầm quan
trọng của sự hiện diện của các ông. Trái lại, trong ánh sáng của những sự thay
đổi về nhân học, sự hiện diện này cũng không thể thiếu được. Vì sự lành mạnh của
phát triển nhân bản và tâm linh không thể có được nếu không có sự hiện diện của
cả người nữ lẫn người nam. Vì thế, cộng đồng Kitô hữu nên đánh giá cao sự hiện
diện của cà các nữ giáo lý viên, mà số lượng của họ thật quan trọng cho việc dạy
giáo lý, lẫn các nam giáo lý viên, mà vai trò của họ đặc biệt với các thiếu
niên và thanh niên ngày nay là điều không thể thiếu được. Nhất là phải đánh giá
cao sự hiện diện của các giáo lý viên trẻ, là những người đặc biệt đóng
góp nhiệt tình, óc sáng tạo và hy vọng. Họ được mời gọi để cảm thấy trách nhiệm
của mình trong việc truyền lại đức tin.