1. BẢN CHẤT
CỦA VIỆC DẠY GIÁO LÝ
Mặc khải trong kế hoạch quan phòng của Thiên
Chúa
55. Dạy Giáo lý là một hoạt động của
Hội Thánh, phát sinh từ mệnh lệnh truyền giáo của Chúa (x. Mt 28:19-20)
và nhắm đến việc làm cho lời rao giảng về cuộc khổ nạn, cái chết và việc Phục
Sinh của Người là được tiếp tục vang vọng trong tâm hồn mỗi con người, như
chính tên gọi của hoạt động này ám chỉ, ngõ hầu cuộc sống của họ
được biến đổi. Như một thực tại năng động và phức tạp nhằm phục vụ Lời Chúa, dạy
giáo lý là đồng hành, giáo dục cùng đào luyện trong đức tin và cho đức tin, một
dẫn nhập vào việc cử hành Mầu Nhiệm, soi sáng và giải thích cuộc đời con người
và lịch sử. Qua việc tích hợp các đặc tính này cách hòa hợp, việc dạy giáo lý
thể hiện sự phong phú của thực chất của nó và góp phần đặc biệt vào sứ mạng mục
vụ của Hội Thánh.
56. Việc dạy giáo lý, một giai đoạn
ưu tuyển trong tiến trình Phúc Âm hóa, thường nhắm đến những người đã nhận được
lời rao giảng đầu tiên (kerygma), nó đẩy mạnh trong những người ấy
tiến trình nhập đạo (khai tâm), lớn lên, và trưởng thành trong đức tin. Tuy
nhiên cũng đúng nếu thắc mắc rằng việc phân biệt những khác nhau về khái niệm
giữa việc tiền Phúc Âm hóa, việc rao giảng đầu tiên, việc dạy giáo lý và việc
đào luyện không ngừng còn hữu dụng hay không, thì trong bối cảnh hiện nay,
chúng ta không còn có thể nhấn mạnh đến những sự khác biệt như thế nữa. Thực
ra, một đàng, những người ngày nay xin được hoặc đã lãnh nhận ân sủng của các
bí tích thường chưa có một kinh nghiệm đức tin rõ ràng hoặc không biết một cách
thâm sâu quyền năng và sự ấm áp của đức tin; đàng khác, một lời rao giảng hình
thức bị giới hạn vào việc chỉ nói lên những khái niệm về đức tin không cho phép
người ta hiểu biết về chính đức tin, là điều đáng lẽ phải là một chân trời mới
của cuộc đời được rộng mở, bắt đầu từ cuộc gặp gỡ Chúa Giêsu.
Mối liên hệ mật thiết
giữa Kerygma và Dạy Giáo Lý
57. Nhu cầu này mà Hội Thánh phải đáp
ứng ở thời điểm hiện tại làm nổi bật sự cần thiết phải có một huấn giáo có thể được
gọi cách kiên định là huấn giáo theo lời rao giảng đầu tiên (kerygma),
có nghĩa là một huấn giáo như một “cuộc đi sâu hơn vào kerygma”. Việc dạy giáo lý, là điều
luôn luôn không thể được phân biệt với lời rao giảng đầu tiên, được gọi ngay từ
đầu là một lời rao giảng về đức tin, và không được trao lại cho các hoạt động
khác của Hội Thánh nhiệm vụ trợ giúp trong việc khám phá ra vẻ đẹp của Tin Mừng.
Điều quan trọng là mỗi người phải khám phá ra rằng niềm tin thật đáng giá chính
qua việc học giáo lý, và bằng cách này việc dạy giáo lý không còn bị giới hạn
vào việc chỉ là thời gian lớn lên cách hoà hợp hơn trong đức tin, nhưng nó đóng
góp vào việc sinh ra chính đức tin và cho phép khám phá ra sự cao cả và đáng
tin cậy của đức tin. Như thế lời rao giảng [đầu tiên] có thể không còn được coi
đơn thuần như giai đoạn đầu của đức tin, mở đầu cho việc dạy giáo lý, mà thay
vào đó là bình diện thiết yếu của mọi thời điểm của việc dạy giáo lý.
58. Lời rao giảng đầu tiên
(kerygma), “ngọn lửa của Chúa Thánh Thần được ban cho dưới
hình lưỡi lửa và dẫn đưa chúng ta đến việc tin vào Đức Chúa Giêsu Kitô, là Đấng
qua cái chết và Phục Sinh của Người, mặc khải và thông truyền cho chúng ta lòng
thương xót vô biên của Chúa Cha”, đồng thời cũng là một hành
động rao giảng và là nội dung của chính lời rao giảng, tiết lộ Tin Mừng và
làm cho nó hiện diện. Trong kerygma, nhân
vật chủ động là Chúa Giêsu, Đấng tỏ Mình ra trong chứng từ của người rao giảng;
đời sống của chứng nhân là người đã cảm nghiệm được ơn cứu rỗi cho nên trở
thành người đánh động và lay chuyển người nghe. Tân Ước trình bày những diễn đạt
khác nhau của kerygma để đáp ứng những cách khác
nhau mà ơn cứu độ được hiểu, được nói ra bằng những giọng nói khác biệt trong
các nền văn hóa khác nhau và với những người khác nhau. Cũng thế, Hội Thánh phải
có khả năng hiện thân cho kerygma theo nhu cầu của những người đương thời
của mình, giúp đỡ và khuyến khích để trên môi các giáo lý viên (x. Rm
10:8-10), từ sự sung mãn của tâm hồn họ (x. Mt 12:34), trong động năng hỗ
tương của việc lắng nghe và đối thoại (x. Lc 24:13-35), sẽ trổ ra những
lời rao giảng đáng tin cậy, lời tuyên xưng đức tin đầy sức sống, các
thánh thi mới về Đức Kitô để nói cho mọi người biết về tin vui: “Đức Chúa
Giêsu Kitô yêu thương bạn, Người đã ban mạng sống của Người để cứu bạn, và giờ
đây Người đang ở bên bạn mỗi ngày, để soi sáng, củng cố và giải thoát bạn”.
59. Tính trung tâm của kerygma
cho việc rao giảng cũng dẫn đến một vài hướng dẫn cho việc dạy giáo lý: “nó phải
diễn tả tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, là điều đi trước mọi bổn phận luân lý
hay tôn giáo của chúng ta; nó không được áp đặt chân lý nhưng mời gọi tự do; nó
phải được đánh dấu bằng niềm vui, sự khích lệ, sức sống và một sự cân bằng hài
hoà để không rút gọn việc rao giảng vào một ít giáo thuyết đôi khi mang tính
triết học hơn là tính Phúc Âm”. Những yếu tố làm cho việc
dạy giáo lý như một lời vang vọng của kerygma được viện dẫn để nhấn mạnh
là: bản chất của điều được đề nghị; bài tường thuật, hiệu quả, và phẩm chất hiện
hữu; chiều kích làm chứng cho đức tin; thái độ liên hệ; việc chú tâm vào ơn cứu
rỗi. Thật ra, tất cả những điều này đặt ra những câu hỏi cho chính Hội Thánh, vốn
được mời gọi trước nhất phải tái khám phá Tin Mừng mà mình rao giảng: lời
rao giảng mới của Tin Mừng đòi Hội Thánh phải có một cách lắng nghe Tin
Mừng được đổi mới, cùng với những thính giả của mình.
60. Vì “kerygma có một nội
dung xã hội rõ ràng”, nên điều quan trọng là
khía cạnh xã hội của việc Phúc Âm hóa phải được làm cho minh bạch một cách nào
đó để nắm bắt được sự rộng mở của nó (kerygma) cho toàn thể cuộc đời. Điều này có nghĩa là hiệu lực của việc dạy
giáo lý được trở nên hữu hình không những chỉ qua việc rao giảng trực tiếp về Mầu
Nhiệm Vượt Qua của Chúa, mà còn qua việc tỏ lộ một cách nhìn mới về đời sống, về
nhân loại, về công lý, về đời sống xã hội và về toàn thể vũ trụ, là cái nhìn nảy
sinh từ đức tin và làm cho những dấu chỉ của đức tin hiện diện cách cụ thể. Vì lý do này, việc trình bày ánh sáng mà với
nó Tin Mừng chiếu soi xã hội không phải là thời điểm thứ nhì theo thứ tự khác
biệt với việc rao giảng chính đức tin. Việc dạy giáo lý là một việc rao giảng đức
tin, và như thế nó không thể làm gì khác hơn là gắn liền với mọi khía cạnh của
đời sống con người, dù một cách phôi thai.
Giai đoạn dự tòng như
một nguồn linh hứng cho
việc dạy giáo lý
61. Đòi hỏi “không được giả thiết
rằng thính giả của chúng ta hiểu toàn thể bối cảnh của điều chúng ta nói, hoặc
có khả năng liên hệ điều chúng ta nói với chính trọng tâm của Tin Mừng”, là lý do cho cả việc xác
nhận bản chất lệ thuộc vào lời rao giảng đầu tiên (kerygmatic) của
huấn giáo lẫn việc kể đến sự linh hứng theo giai đoạn dự tòng của nó. Thời gian
dự tòng là một thực hành cổ xưa của Hội Thánh, được tái lập sau Công Đồng
Vaticanô II (x. SC 64-66; CD 14; AG 14), dành cho những
người trở lại nhưng chưa được rửa tội. Cho nên nó có một chủ ý truyền giáo rõ
ràng và được cấu trúc như một tổng thể có tổ chức và tích lũy cho việc khai tâm
vào đức tin và đời sống Kitô hữu. Chính vì đặc tính truyền giáo của nó, thời
gian dự tòng có thể gây cảm hứng cho việc dạy giáo lý nhắm đến những người dù
đã lãnh nhận món quà ân sủng của bí tích Rửa Tội, nhưng không thực sự được nếm sự
phong phú của món quà này: theo nghĩa này, chúng ta
nói đến việc dạy giáo lý được linh hứng bởi mẫu dự tòng hay một giáo
lý dự tòng hậu rửa tội hoặc giáo lý dẫn nhập vào đời sống Kitô hữu.
Linh hứng này không quên rằng những người đã được rửa tội “qua bí tích Rửa Tội…
đã trở thành những phần tử của Hội Thánh và con cái Thiên Chúa rồi. Vì thế việc
trở lại của họ dựa trên bí tích Rửa Tội mà họ đã lãnh nhận, các hiệu quả của bí
tích này cần được phát triển”.
62. Về các tham dự viên, chúng ta
có thể nói về ba sáng kiến theo kiểu dự tòng:
· Giáo lý dự tòng theo đúng
nghĩa dành cho những người chưa được rửa tội, dù là
những người trẻ và trưởng thành hay trẻ em trong tuổi học trò và thiếu niên;
· Giáo lý dự tòng theo nghĩa loại
suy dành cho những người đã được rửa tội nhưng
chưa hoàn tất các bí tích khai tâm Kitô giáo;
· Dạy giáo lý theo sự linh hứng bởi giáo lý dự tòng dành cho những người đã lãnh
nhận các bí tích khai tâm nhưng chưa được Phúc Âm hóa và học giáo lý cách đầy đủ,
hoặc cho những người muốn lại tiếp tục cuộc hành trình đức tin.
63. Việc phục hồi thời gian dự
tòng mà Công Đồng Vaticanô II thúc đẩy đã được thể hiện với việc xuất bản Nghi
Thức Khai Tâm Kitô giáo cho Người Trưởng Thành. Thời gian dự tòng là “giai
đoạn huấn luyện cho toàn thể đời sống Kitô hữu” (AG 14), là một tiến
trình được cấu thành trong ba thời kỳ hay giai đoạn, nhằm mục đích dẫn người dự
tòng đến một cuộc gặp gỡ trọn vẹn với mầu nhiệm của Đức Kitô trong đời sống của
cộng đồng, và như thế được coi là một môi trường điển hình cho việc khai
tâm, dạy giáo lý và hiệp nhiệm. Các nghi thức chuyển tiếp giữa các giai đoạn làm nổi
bật bản chất tiệm tiến của lộ trình đào luyện của người dự tòng.
· trong thời kỳ tiền dự tòng
việc Phúc Âm hóa đầu tiên để kêu gọi người ta hoán cải xảy ra, và kerygma
của lời rao giảng ban đầu được trình bày;
· thời kỳ dự tòng đúng
nghĩa được dành để dạy giáo lý cách toàn diện; học viên được vào giai đoạn này
với Nghi Thức Tiếp Nhận, trong đó việc “trao sách Tin Mừng” có thể xảy ra.
· thời kỳ thanh tẩy và soi
sáng cung cấp một sự chuẩn bị kỹ càng hơn cho các bí tích khai tâm; giai đoạn
này, cửa vào của nó là qua Nghi Thức Tuyển Chọn hoặc ghi danh, chuẩn bị
sẵn sàng cho việc “trao Kinh Tin Kính” và “trao Kinh Lạy Cha”;
· Việc cử hành các bí tích khai
tâm vào Lễ Vọng Phục Sinh mở đầu thời kỳ hiệp
nhiệm hay nhiệm huấn được đặc trưng bởi một kinh nghiệm sâu xa hơn
bao giờ hết về các mầu nhiệm của đức tin và bởi việc được sát nhập vào đời sống
của công đồng.
64. Sư linh hứng theo dự tòng của
việc dạy giáo lý không có nghĩa là sao chép giáo lý dự tòng một cách lệ thuộc,
nhưng sử dụng kiểu cách và động năng đào luyện của nó, cũng đáp ứng những “nhu
cầu về một cuộc canh tân hiệp nhiệm, là cuộc canh tân có thể có rất nhiều hình
thức khác nhau dựa vào sự phân định về giáo dục của mỗi cộng đoàn”. Giáo lý dự tòng có một đặc
tính truyền giáo nội tại, là điều trở nên yếu dần với thời gian trong việc dạy
giáo lý. Những yếu tố thiết yếu của giáo lý dự tòng đã được đem trở lại, và sau
cuộc phân định, chúng phải được hiểu, lượng giá và lại áp dụng ngày nay với can
đảm và sáng kiến, trong một nỗ lục hội nhập văn hóa. Những yếu tố như thế là:
a. Đặc
tính Vượt Qua: trong chương trình dự tòng, mọi sự đều
hướng về mầu nhiệm khổ nạn, cái chết và cuộc Phục Sinh của Đức Kitô. Việc dạy
giáo lý thông truyền trung tâm này của đức tin bằng một cách dễ hiểu thiết yếu
và sống còn, đem từng người đến tiếp xúc với Chúa Phục Sinh và giúp họ tái giải
thích và sống những giây phút sâu xa nhất của cuộc đời họ như những biến cố Vượt
Qua;
b. Đặc
tính khai tâm: chương trình dự tòng là một sự khai tâm
vào đức tin dẫn người dự tòng đến việc khám phá ra mầu nhiệm của Đức Kitô và Hội
Thánh. Việc dạy giáo lý cung cấp một giới thiệu vào tất cả mọi khía cạnh của đời
sống Kitô hữu, giúp mỗi người bắt đầu cuộc hành trình cá nhân, trong cộng đồng,
để đáp lời Thiên Chúa là Đấng đã tìm kiếm họ;
c. Đặc
tính phụng vụ, nghi thức và biểu tượng: chương trình dự tòng
được đan kết với những biểu tượng, nghi thức và các cuộc cử hành, là những điều
chạm đến giác quan và tình cảm. Việc dạy giáo lý, chính nhờ việc sử dụng “những
biểu tượng hùng hồn” và qua việc “tái đánh giá cao những dấu chỉ phụng vụ” có thể, bằng cách này,
đáp ứng những đòi hỏi của con người thời đại, là những người điển hình chỉ thấy
những kinh nghiệm có thể chạm đến con người thể lý hay tình cảm của họ là điều quan
trọng;
d. Đặc
tính cộng đồng: chương trình dự tòng là một tiến trình xảy
ra trong một cộng đồng cụ thể, là nơi cung cấp kinh nghiệm về cộng đồng được
Thiên Chúa ban, và như thế ý thức về trách nhiệm công bố đức tin của mình. Việc
dạy giáo lý được linh hứng bởi chương trình dự tòng tích hợp sự đóng góp của
nhiều đặc sủng và thừa tác vụ khác nhau (các giáo lý viên, những người làm việc
về phụng vụ và bác ái, trưởng các hội đoàn, cùng với các thừa tác viên có chức
thánh…), cho thấy rằng cung lòng sinh ra đức tin là toàn thể cộng đồng;
e. Đặc
tính hoán cải không ngừng và làm nhân chứng: chương trình dự tòng
được mường tượng, trong toàn bộ của nó, như một cuộc hành trình hoán cải và
thanh lọc từ từ, cũng được đề cao bằng những cuộc cử hành đánh dấu việc đạt được
một cách sống và suy nghĩ mới. Ý thức rằng việc hoán cải không bao giờ hoàn toàn
được hoàn tất nhưng kéo dài suốt đời, huấn giáo dạy các tín hữu khám phá ra rằng
mình là những kẻ có tội được tha thứ và, dựa vào gia sản phong phú của Hội
Thánh, cũng cung cấp những con đường sám hối và đào luyện là điều thúc đẩy việc
hoán cải cả tâm hồn lẫn trí khôn thành một cách sống mới là điều cũng có thể được
thấy rõ từ bên ngoài.
f. Đặc tính tiệm tiến của kinh
nghiệm đào luyện: chương trình dự tòng là một
tiến trình năng động được cấu trúc bằng các giai đoạn nối tiếp nhau một cách từ
từ và tiệm tiến. Đặc tính tiến hóa này đáp ứng với câu chuyện cuộc đời thực sự
của con người, vốn lớn lên và trưởng thành với thời gian. Hội Thánh kiên trì đồng
hành với các con cái mình và tôn trọng tốc độ trưởng thành của họ, chứng tỏ
mình là một người mẹ chu đáo.
65. Việc dạy giáo lý theo lối kerygma
và truyền giáo đòi hỏi một sư phạm khai tâm được linh hứng bởi cuộc hành trình
dự tòng, đáp ứng nhiều hoàn cảnh khác nhau với sự khôn ngoan mục vụ. Nói cách
khác, theo một sự hiểu biết đã được phát triển ở một số Hội Thánh, đây là vấn đề
của giáo lý khai tâm vào đời sống Kitô hữu. Nó là một cuộc hành trình sư
phạm được đưa ra trong cộng đồng Hội Thánh, dẫn người tín hữu đến gặp gỡ Đức
Chúa Giêsu Kitô qua Lời Chúa, các hành vi phụng vụ và bác ái, tích hợp tất cả mọi
khía cạnh của con người để họ có thể lớn lên trong tinh thần đức tin và thành
nhân chứng cho sự sống mới trong thế gian.
2. VIỆC DẠY
GIÁO LÝ TRONG TIẾN TRÌNH PHÚC ÂM HÓA
Lời rao giảng đầu tiên và việc dạy giáo lý
66. Với lời rao giảng đầu tiên, Hội
Thánh công bố Tin Mừng và gợi ý cho sự hoán cải. Trong việc thực hành mục vụ
thông thường, thời điểm này của tiến trình Phúc Âm hóa thật là cơn bản. Trong sứ
vụ rao giảng cho muôn dân (mission ad gentes), nó được thể hiện
trong giai đoạn gọi là tiền dự tòng. Vào thời điểm hiện nay của việc Tân Phúc
Âm hóa, có thể nói rằng điều ưu tiên là dạy giáo lý theo kerygma như đã
được trình bày.
67. Trong bối cảnh rao giảng cho
muôn dân, lời rao giảng đầu tiên chủ yếu được hiểu theo nghĩa thứ tự thời gian.
Thực ra, “bày tỏ Đức Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng của Người cho những người chưa
biết là chương trình căn bản mà Hội Thánh đã chấp nhận như đã lãnh nhận từ Đấng
Sáng Lập kể từ buổi sáng Ngày Lễ Hiện Xuống đến nay”. Hội Thánh thực hiện việc rao giảng đầu tiên “bằng
một hoạt động phức tạp và đa dạng đôi khi còn được gọi là ‘tiền Phúc Âm hóa’,
nhưng theo đúng nghĩa thì đã là Phúc Âm hóa rồi, mặc dù vào lúc ban đầu nó là một
giai đoạn chưa đầy đủ”. Việc dạy giáo lý khai triển
giây phút ban đầu này và đưa nó đến trưởng thành. Cho nên, lời rao giảng đầu
tiên và việc dạy giáo lý, tuy khác biệt, nhưng bổ túc cho nhau.
68. Trong nhiều bối cảnh của Hội
Thánh, lời rao giảng đầu tiên cũng có một nghĩa thứ hai. “Lời rao giảng đầu
tiên này không có nghĩa là nó xuất hiện lúc ban đầu và sau đó có thể quên đi hoặc
thay thế bằng những điều khác quan trọng hơn. Nó đứng đầu theo nghĩa chất lượng
bởi vì nó là lời loan báo chính, là lời mà chúng ta phải luôn luôn nghe đi nghe
lại bằng những cách khác nhau, là lời mà chúng ta phải luôn luôn tái rao giảng
trong suốt tiến trình dạy giáo lý dưới dạng này hay dạng khác, trong tất cả các
mức độ và thời điểm của nó”. Việc rao giảng đầu tiên,
nhiệm vụ của mọi Kitô hữu, dựa trên chữ “hãy đi” ấy (Mc 16:15; Mt
28:19) mà Chúa Giêsu đã truyền cho các môn đệ như một huấn lệnh và nó ám chỉ là
đi ra, mau mắn, đồng hành, như thế trở thành các môn đệ truyền giáo thật sự.
Cho nên chúng ta không được giảm nó xuống thành việc truyền tải một sứ điệp,
nhưng trước hết là chia sẻ sự sống đến từ Thiên Chúa và thông truyền niềm vui
đã được gặp Chúa. “Là Kitô hữu không
phải là một lựa chọn đạo đức hay một ý tưởng cao cả, nhưng là một cuộc gặp gỡ với một
biến cố, một con người,
là điều mang đến cho cuộc sống một chân trời mới và một hướng đi quyết định”.
Việc dạy giáo lý khai tâm Kitô giáo
69. Việc dạy giáo lý khai tâm Kitô
giáo liên kết hoạt động truyền giáo, là điều đưa ra một lời mời gọi đến
đức tin, với hoạt động mục vụ là điều tiếp tục nuôi dưỡng nó. Việc dạy
giáo lý là một phần không thể thiếu được của việc khai tâm Kitô giáo và liên kết
chặt chẽ với các bí tích khai tâm, đặc biệt là bí tích Rửa Tội. “Mối dây nối kết
việc dạy giáo lý với bí tích Rửa Tội là việc tuyên xưng đức tin thật, một điều
vừa là một yếu tố cố hữu trong bí tích này vừa đồng thời là mục tiêu của việc dạy
giáo lý”.
“Sứ vụ làm phép rửa, tức là sứ vụ bí tích, được bao hàm trong sứ vụ Phúc Âm
hóa’”; Cho nên, sứ vụ bí tích
không thể tách rời ra khỏi tiến trình Phúc Âm hóa được. Thực ra, lộ trình theo
nghi thức của việc khai tâm Kitô giáo là một tiến trình hiện thực hóa của giáo lý
không những chỉ xảy ra trong Hội Thánh, mà còn cấu thành Hội Thánh. Trong việc
khai tâm Kitô giáo, nó không chỉ là vấn đề công bố Tin Mừng, nhưng còn là thực
hành Tin Mừng.
70. Các bí tích khai tâm cấu thành
môt sự hợp nhất bởi vì “chúng thiết lập nền tảng của đời sống Kitô hữu. Người
tín hữu được tái sinh bởi nước Rửa Tội được củng cố bởi bí tích Thêm Sức và được
nuôi dưỡng bởi bí tích Thánh Thể”. Thực ra, cần phải nhắc lại rằng “việc lãnh nhận
bí tích Rửa Tội và Thêm Sức của chúng ta là nhằm vào việc lãnh nhận bí tích Thánh
Thể. Vì vậy, việc thực hành mục vụ của chúng ta phải phản ảnh hơn nữa sự hiểu
biết về tính đơn nhất của tiến trình khai tâm Kitô giáo”. Cho nên thật thích đáng để
lượng giá và kể đến thứ tự theo thần học của các bí tích – Rửa Tội, Thêm Sức,
Thánh Thể -- để “xem cách thực hành nào sẽ giúp ích nhiều hơn cho người tín hữu
biết đặt bí tích Thánh Thể ở trung tâm, như mục tiêu của toàn thể tiến trình
khai tâm”.
Điều đáng ao ước là ở những nơi có các thí nghiệm, thì đó không phải là những
trường hợp biệt lập, mà là hoa quả của một suy nghĩ của toàn thể Hội Đồng Giám
Mục xác nhận quyết định thực hành cho toàn thể lãnh thổ dưới quyền giám sát của
Hội Đồng Giám Mục ấy.
71. Việc dạy giáo lý khai tâm
Kitôi giáo là một cuộc đào luyện đức tin căn bản, thiết yếu, có tổ chức, có
hệ thống, và toàn bộ.
· Căn bản và thiết yếu,
trong đó nó là một cuộc tìm hiểu đầu tiên về kerygma là điều trình bày
những mầu nhiệm căn bản của đức tin và của những giá trị Phúc Âm nền tảng. “Nó
đặt nền móng cho căn nhà thiêng liêng của Kitô hữu, nuôi dưỡng cội rễ đời sống
đức tin của họ và giúp họ nhận được nhiều chất dinh dưỡng chắc chắn trong đời sống
thông thường của cộng đồng Kitô hữu”;
· Có tổ chức,
trong đó nó được tổ chức chu đáo và chặt chẽ; có hệ thống nghĩa là không
nghèo nàn và tùy tiện. Việc trình bày có tổ chức và hệ thống mầu nhiệm Kitô
giáo phân biệt việc dạy giáo lý với các hình thức rao giảng Lời Chúa khác.
· Toàn bộ,
bởi vì nó là một hình thức học tập mở ra cho tất cả các thành phần của đời sống
Kitô hữu. Việc dạy giáo lý từ từ thúc đẩy việc nội tâm hóa và kết hợp tất cả những
thành phần này, dẫn đến một sự biến đổi con người cũ và hình thành một tinh thần
Kitô hữu.
72. Những đặc tính này của việc dạy
giáo lý khai tâm được diễn tả cách mô phạm trong những tóm lược về đức
tin đã được Thánh Kinh trình bày chi tiết (như ba kinh Tin, Cậy, Mến) và rồi
trong Thánh Truyền (đức tin mà chúng ta tin, cử hành, sống và cầu nguyện). Những
tóm lược này là một cách hiểu biết cách hài hòa đời sống và lịch sử, bởi vì
chúng không nói lên những quan điểm thần học có thể thú vị nhưng luôn thiếu
sót; thay vào đó chúng công bố chính đức tin của Hội Thánh.
Việc dạy giáo lý và đào luyện
liên tục đời sống Kitô hữu
73. Việc dạy giáo lý được dùng để
phục vụ đáp trả đức tin của Kitô hữu, giúp họ sống đời sống Kitô hữu trong một
trạng thái hoán cải. Đây chính là vấn đề nội tâm hóa sứ điệp Kitô giáo, mà qua
đó động năng của việc dạy giáo lý đang tiến hành biết cách tổng hợp việc lắng
nghe, phân định và thanh lọc. Hoạt động dạy giáo lý như thế không bị giới hạn
vào cá nhân người tín hữu, nhưng nói với toàn thể cộng đồng Kitô hữu để hỗ trợ
quyết tâm truyền giáo của việc Phúc Âm hóa. Việc dạy giáo lý cũng khuyến khích
việc hội nhập các cá nhân và cộng đồng vào bối cảnh xã hội và văn hóa, giúp đỡ
việc giải thích lịch sử theo Kitô giáo và thúc đẩy việc dấn thân vào xã hội của
các Kitô hữu.
74. Việc dạy giáo lý, được dùng để
phục vụ việc liên tục giáo dục đức tin, hiện hữu trong tương quan với những
khía cạnh khác nhau của đời sống Kitô hữu.
a. Việc
dạy giáo lý và Thánh Kinh: kiến thức về Thánh Kinh là
điều thiết yếu cho việc tiến triển trong đời sống đức tin; vai trò trung tâm của
nó trong việc dạy giáo lý làm cho việc truyền đạt lịch sử cứu độ một cách sống
động được khả thi, và “như thế, một sự hiểu biết về những nhân vật, những biến
cố và những câu nói thời danh trong Thánh Kinh cần phải được khích lệ”.
b. Dạy
giáo lý, phụng vụ và các bí tích: Việc dạy giáo lý nhắm
đến việc cử hành phụng vụ. Cần phải có cả một giáo lý chuẩn bị cho các bí tích
và một giáo lý hiệp nhiệm nhằm bồi dưỡng một sự hiểu biết và một kinh nghiệm
sâu xa về phụng vụ.
c. Việc
dạy giáo lý, đức ái và làm nhân chứng: trong khi việc dạy
giáo lý, vang vọng lại Tin Mừng, đúc khuôn người tín hữu cho đức ái, các hành động
bác ái là một phần không thể thiếu được của việc công bố giáo lý. Đức ái không
những chỉ là dấu chỉ của việc đón nhận Tin Mừng, mà còn là một cách ưu tiên để
đến với Tin Mừng: “ai yêu thì được sinh ra bởi Thiên Chúa và biết Thiên Chúa” (1
Ga 4:7).
3. CÁC MỤC
TIÊU CỦA VIỆC DẠY GIÁO LÝ
75. Tại trung tâm của mọi tiến
trình dạy giáo lý là cuộc gặp gỡ sống động với Đức Kitô. “Cũng vậy, mục tiêu tối
hậu của việc dạy giáo lý không những là cho người ta liên lạc nhưng còn hiệp
thông cách mật thiết với Đức Chúa Giêsu Kitô: chỉ một mình Người có thể dẫn
chúng ta đến tình yêu của Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần và làm cho chúng ta
chia sẻ sự sống của Ba Ngôi Chí Thánh”. Hiệp thông với Đức Kitô là trung tâm của đời
sống Kitô hữu và như thế là trung tâm của hoạt động dạy giáo lý. Việc dạy giáo
lý nhằm mục đích hình thành những con người biết Đức Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng
cứu độ giải phóng của Người hơn bao giờ hết, sống một cuộc gặp gỡ thâm sâu với
Người, chọn chính cách sống của Người và những tâm tình của Người (x. Pl
2:5), cố gắng thực hiện sứ vụ của Đức Kitô là rao giảng Nước Thiên Chúa trong
hoàn cảnh lịch sử mà họ sống.
76. Việc gặp gỡ Đức Kitô liên quan
đến toàn thể con người: trái tim, trí khôn, các giác quan. Nó không chỉ quan hệ
với trí khôn, nhưng cũng với thân xác và trên hết với quả tim. Theo nghĩa này
thì việc dạy giáo lý, vốn giúp nội tâm hóa đức tin và như thế đóng góp một cách
không thể thay thế được vào việc gặp gỡ Đức Kitô, không thúc đẩy việc theo đuổi
mục tiêu này một mình. Nó được hợp tác trong việc này bởi những khía cạnh khác
của đời sống đức tin: trong kinh nghiệm phụng vụ bí tích, trong những mối liên
hệ yêu thương, trong đời sống cộng đồng và phục vụ anh chị em mình, là những điều
gì đó thiết yếu thực sự xảy ra cho việc sinh ra con người mới (x. Eph
4:24) và cho việc biến đổi tâm linh cá nhân (x. Rm 12:2).
77. Việc dạy giáo lý làm cho sự
hoán cải ban đầu được chín mùi và giúp các Kitô hữu biến cuộc đời của họ thành có
ý nghĩa, giáo dục họ trong một tinh thần đức tin phù hợp với Tin Mừng, đến nỗi dần dần họ cảm thấy,
suy nghĩ và hành động như Đức Kitô. Trong cuộc hành trình này, có một đóng góp
quyết định đến từ chính tham dự viên với cá tính của họ, khả năng đón nhận Tin
Mừng vốn tương xứng với hoàn cảnh sống của cá nhân và giai đoạn tăng trưởng của
họ. Tuy nhiên, phải ghi nhận
rằng “Việc dạy giáo lý cho người lớn, vì liên quan đến những người có khả năng gia
nhập với ý thức trách nhiệm hoàn toàn, phải được coi là hình thức dạy giáo lý
chính. Tất cả các hình thức khác, quả thật là luôn luôn cần thiết, một cách nào
đó hướng về nó. Điều này ám chỉ rằng việc dạy giáo lý cho những lứa tuổi khác
phải có nó như điểm tham chiếu”.
78. Sự hiệp thông với Đức Kitô hàm
ý việc tuyên xưng đức tin vào một Thiên Chúa duy nhất: Chúa Cha, Chúa Con và
Chúa Thánh Thần. “Lời tuyên xưng đức tin gắn liền với bí tích Rửa tội là lời
tuyên xưng tuyệt vời về Chúa Ba Ngôi. Hội Thánh làm Phép Rửa “nhân danh Cha và
Con và Thánh Thần” (Mt 28:19), Thiên Chúa Ba Ngôi, Đấng mà người Kitô hữu
phó thác cả cuộc đời. […] Điều quan trọng là việc dạy giáo lý phải liên kết chặt
chẽ việc tuyên xưng đức tin vào Đức Kitô, “Chúa Giêsu là Chúa” với việc tuyên
xưng Chúa Ba Ngôi, “Tôi tin kính Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”, một
cách nào đó để thấy rõ là không có hai cách diễn tả đức tin Kitô giáo. Ai đã trở
về với Đức Chúa Giêsu Kitô và nhìn nhận Người là Chúa qua lời rao giảng đầu
tiên, thì nhờ được giúp đỡ bởi việc học giáo lý, họ bắt đầu một tiến trình tất
yếu dẫn đến việc tuyên xưng Ba Ngôi một cách rõ ràng”. Việc tuyên xưng này chắc
chắn là một hành động riêng của cá nhân, nhưng chỉ đạt được sự trọn vẹn của nó
nếu được tuyên xưng trong Hội Thánh.
4. CÁC
NHIỆM VỤ (CÔNG TÁC) CỦA VIỆC DẠY GIÁO LÝ
79. Để đạt được các mục tiêu của
nó, việc dạy giáo lý theo đuổi một số công tác liên hệ nội tại với nhau vốn được
linh hứng bởi cách Chúa Giêsu hình thành các môn đệ của Người: Người làm cho họ
biết các mầu nhiệm của Nước Trời, dạy họ cầu nguyện, đề nghị với
họ những giá trị của Tin Mừng, đưa họ gia nhập vào đời sống hiệp
thông với Người và với nhau, và vào sứ vụ. Phương pháp sư phạm này của
Chúa Giêsu sau đó hun đúc đời sống của cộng đồng Kitô hữu: “Họ chuyên cần tuân
theo các giáo huấn của các Tông Đồ và hiệp thông với nhau, tham dự lễ bẻ bánh,
và cầu nguyện” (Cv 2:42). Thực ra, đức tin đòi hỏi phải được biết, được
cử hành, được sống, và được biến thành cầu nguyện. Cho nên, để đào luyện các
tín hữu cho một đời sống Kitô hữu toàn diện, việc dạy giáo lý cần phải theo đuổi
những công tác sau đây dẫn đến sự hiểu biết về đức tin; giới thiệu vào các cuộc
cử hành mầu nhiệm; đào luyện cho đời sống trong Đức Kitô; dạy cầu nguyện; và giới
thiệu vào đời sống cộng đồng.
Dẫn đến sự hiểu biết về đức tin
80. Việc dạy giáo lý có công tác bồi
dưỡng sự hiểu biết và nghiên cứu sứ điệp Kitô giáo. Bằng cách này nó giúp người
tín hữu hiểu các chân lý của đức tin Kitô giáo, giới thiệu họ vào sự hiểu biết
về Thánh Kinh và Thánh Truyền sống động của Hội Thánh, bồi dưỡng kiến thức về Kinh
Tín Kính (Tín biểu) và tạo ra một cái nhìn rõ ràng về giáo lý là điều
có thể được dùng như điểm quy chiếu trong đời sống. Điều quan trọng là không được
đánh giá thấp bình diện hiểu biết này của đức tin và phải chú trọng đến việc
bao gồm nó vào tiến trình giáo dục về sự trưởng thành toàn diện của Kitô hữu. Thực
ra, một huấn giáo đưa ra sự đối kháng giữa nội dung và kinh nghiệm đức tin chứng
tỏ chính nó là một huấn giáo vô ích. Nếu không có kinh nghiệm đức tin, một người
sẽ bị tước mất một cuộc gặp gỡ thật sự với Thiên Chúa và với anh em mình; việc
thiếu nội dung sẽ cản trở sự trưởng thành của đức tin, cản trở không cho người
ta tìm thấy ý nghĩa trong Hội Thánh và sống
cuộc gặp gỡ cùng trao đổi với người khác.
Giới thiệu vào việc cư hành Mầu
Nhiệm
81. Dạy giáo lý, ngoài việc bồi dưỡng sự hiểu biết
sống động về mầu nhiệm của Đức Kitô, còn có nhiệm vụ trợ giúp trong việc hiểu
biết và kinh nghiệm về các cuộc cử hành phụng vụ. Qua nhiệm vụ này, việc dạy
giáo lý giúp người tín hữu hiểu tầm quan trọng của phụng vụ trong đời sống Hội
Thánh, giới thiệu họ vào sự hiểu biết về các bí tích và vào đời sống bí tích, đặc
biệt là bí tích Thánh Thể, nguồn mạch và tột đỉnh của đời sống và sứ vụ Hội
Thánh. Các bí tích, được cử hành trong phụng vụ, là những phương tiện đặc biệt để
thông truyền Đức Kitô là Đấng được Hội Thánh rao giảng, một cách hoàn toàn.
82. Hơn nữa, việc dạy giáo lý giáo dục các tín hữu
về các thái độ mà những cuộc cử hành của Hội Thánh đòi buộc: vui mừng vì tính
chất lễ hội của các cuộc cử hành, cảm giác cộng đồng, lắng nghe Lời Chúa, tin
tưởng cầu nguyện, chúc tụng và tạ ơn, có ý thức về những biểu tượng và dấu chỉ.
Qua việc tham dự có ý thức và tích cực, huấn giáo dạy các tín hữu hiểu năm phụng
vụ, là thầy dạy thật sự của đức tin, tầm quan trọng của ngày Chúa Nhật, ngày của
Chúa và của cộng đồng Kitô hữu. Việc dạy giáo lý cũng giúp đánh giá cao các việc
đạo đức phổ thông.
Đào luyện cho đời sống trong Đức Kitô
83. Việc dạy giáo lý có nhiệm vụ làm cho tâm hồn của
mỗi Kitô hữu vang dội lời mời gọi đến một đời sống mới phú hợp với phẩm giá của con cái Thiên Chúa,
là những người đã lãnh nhận trong bí tích Rửa Tội, và với sự sống của Đấng Phục
Sinh đã được thông ban qua các bí tích. Nhiệm vụ này hệ tại việc chứng tỏ rằng
sự đáp trả lại lời mời gọi nên thánh (x. LG 40) là cách sống con thảo có
khả năng đem mọi tình huống trở lại con đường chân lý và hạnh phúc là Đức Kitô.
Theo nghĩa này, việc dạy giáo lý chỉ dạy người tín hữu cách theo Chúa theo những
tâm tính được mô tả trong Bát Phúc -- Tám Mối Phúc (Mt 5:1-12), là điều
bộc lộ chính đời sống của Chúa. “Chúa Giêsu giải thích cách rất đơn giản ý
nghĩa của việc nên thánh khi Người ban cho chúng ta Bát Phúc (x. Mt
5:3-12; Lc 6:20-23). Bát Phúc giống như một thẻ căn cước của Kitô hữu”.
84. Cũng vậy, công tác giáo dục
người tín hữu đến đời sống tốt lành của Tin Mừng của việc dạy giáo lý liên quan
đến việc đào luyện các Kitô hữu về lương tâm luân lý, để trong mọi hoàn cảnh họ
sẽ lắng nghe Thánh Ý Chúa Cha ngõ hầu phân định, dưới sự hướng dẫn của Chúa
Thánh Thần, và theo luật của Đức Kitô (x. Gal 6:2) điều gì là dữ cần phải
tránh và điều gì là tốt lành cần phải làm cùng thực thi điều ấy với đức ái
chuyên cần. Đó là lý do tại sao phải dạy người tín hữu biết rút ra từ luật yêu
thương được khai triển từ Mười Điều Răn (x. Xh 20:1-17; Đnl
5:6-21) và từ các nhân đức, cả đức tính nhân bản lẫn nhân đức Kitô giáo, các hướng
dẫn cho việc hành động như các Kitô hữu trong những lãnh vực khác của đời sống.
Không quên rằng Chúa đến để ban cho chúng ta một đời sống sung mãn (x. Ga
10:10), việc dạy giáo lý phải biết cách làm cho người ta chú ý đến “sự hấp dẫn
và lý tưởng của một đời sống khôn ngoan, thỏa mãn, và phong phú” ngõ hầu biến
các tín hữu thành “những sứ giả
hân hoan của các đề nghị thách đố, những người canh giữ sự tốt lành và thẩm mỹ là những điều
tỏa sáng trong một đời sống trung thành với Tin Mừng”.
85. Hơn nữa, cần phải nhớ rằng việc
đáp trả ơn gọi chung của Kitô hữu được thể hiện một cách nhập thể, bởi vì mỗi
người con của Thiên Chúa, tùy theo mức độ tự do của họ, lắng nghe Ngài và nhận
ra những đặc sủng được Ngài trao phó, có nhiệm vụ khám phá ra vai trò riêng của
mình trong chương trình cứu độ. Như thế, chỉ dẫn về luân lý trong việc dạy giáo
lý luôn luôn truyền đạt dựa vào một bối cảnh ơn gọi, nhìn đến trước hết
đời sống một người như ơn gọi đầu tiên và cơ bản. Mọi hình thức dạy giáo lý phải
làm hết sức để làm sáng tỏ chân giá trị của ơn gọi Kitô hữu, cung cấp sự đồng
hành trong việc phân định các ơn gọi riêng biệt, để giúp người tín hữu củng cố
tình trạng của mình trong đời sống. Tùy vào hành động dạy giáo lý để chứng tỏ rằng
đức tin được sống trong quyết tâm yêu thương như Đức Kitô đã yêu hay không, là
cách đẩy mạnh việc trị đến của Nước Thiên Chúa trong thế gian và hy vọng vào lời
hứa hạnh phúc vĩnh cửu.
Dạy cầu nguyện
86. Cầu nguyện trước hết là một hồng
ân từ Thiên Chúa; thực ra, trong mỗi người đã được rửa tội “Chính Thần Khí cầu
thay nguyện giúp chúng ta, bằng những tiếng rên siết khôn tả” (Rm 8:26).
Việc dạy giáo lý có nhiệm vụ giáo dục người tín hữu biết cầu nguyện và sống
trong cầu nguyện, phát triển khía cạnh chiêm niệm của kinh nghiệm Kitô giáo. Cần
phải dạy họ cầu nguyện cùng với Chúa Giêsu và giống Chúa Giêsu: “Học cầu nguyện với Chúa Giêsu là cầu
nguyện bằng chính những tâm tình mà Người đã bày tỏ khi hướng về Chúa Cha: thờ
lạy, ngợi khen, cảm tạ, tâm tình tín thác của người con, khẩn cầu, kính sợ vinh
quang của Ngài. Những tâm tình đó được phản ảnh trong kinh Lạy Cha là kinh Chúa
Giêsu dạy các môn đệ và là mẫu mực của tất cả kinh nguyện Kitô giáo. […] Khi
việc dạy giáo lý được thấm nhuần bởi bầu khí cầu nguyện thì việc đồng hóa toàn
thể đời sống Kitô hữu đạt được cao điểm của nó”.
87. Nhiệm vụ bao hàm việc dạy cả cầu
nguyện riêng lẫn cầu nguyện phụng vụ và cộng đồng, dẫn người tín hữu vào các
hình thức cầu nguyện thường trực: chúc tụng và thờ lạy, xin ơn, chuyển cầu,
tạ ơn và ngợi khen. Có một số phương tiện rất
thông dụng để đạt được những mục đích này: cầu nguyện bằng Thánh Kinh, đặc biệt
là qua các giờ kinh phụng vụ và lectio divina; tâm nguyện gọi là Kinh
Nguyện của Chúa Giêsu, việc tôn sùng Đức Trinh Nữ
Maria qua việc thực hành các việc đạo đức như đọc Kinh Mân Côi, khẩn cầu và rước
kiệu,vv…
Giới thiệu và đời sống cộng đồng
88. Đức tin được tuyên xưng, cử
hành, và sống trên hết là trong cộng đồng: “Bình diện cộng đồng không phải là một
‘khung sườn’, một ‘phác họa’, nhưng là một phần không thể thiếu được của đời sống
Kitô hữu, của việc làm nhân chứng và Phúc Âm hóa”. Điều này được diễn tả rất
hay trong nguyên tắc cổ điển: “Idem velle atque idem nolle – muốn
cùng một điều và bỏ cùng một điều – được nhìn nhận từ thời xưa là nội dung
thật của tình yêu: một người trở nên tương tự như người khác và điều này dẫn đến
một cộng đồng có cùng một ý muốn và tư tưởng”. Điều làm cho việc ấy khả
thi là vun trồng một linh đạo hiệp thông. Linh đạo này làm cho một người
có thể thấy ánh sáng của Thiên Chúa Ba Ngôi cũng phản chiếu trên khuôn mặt của
anh em mình, cảm nhận qua sự hiệp nhất sâu xa của Nhiệm Thể Đức Kitô rằng họ là
một phần của chính mình; chia sẻ niềm vui và đau khổ của họ ngõ hầu cảm nhận được
những ao ước của họ; chăm sóc cho những nhu cầu của họ; hiến cho họ một tình bạn
chân tình và sâu sắc. Trên hết mọi sự, việc nhìn đến điều gì là tích cực ở người
khác để quý mến họ như một món quà Thiên Chúa ban giúp chúng ta gạt ra ngoài những
cám dỗ ích kỷ là điều dẫn đến cạnh tranh, tham danh vọng, ngờ vực và ganh tỵ.
89. Cho nên, trong việc chuẩn bị
cho đời sống cộng đồng, việc dạy giáo lý có nhiệm vụ phát triển cảm giác thuộc
về Hội Thánh; dạy ý thức về sự hiệp thông của Hội Thánh, thúc đẩy việc chấp
nhận Huấn Quyền, hiệp thông với các mục tử, đối thoại huynh đệ; đào luyện các
tín hữu ý thức về việc đồng trách nhiệm, góp phần vào việc xây dựng cộng
đồng như những phần tử tích cực và như những môn đệ truyền giáo cho việc tăng
trưởng của nó.
5. CÁC
NGUỒN CỦA HUẤN GIÁO
90. Các nguồn mà huấn giáo rút ra
được coi như liên hệ với nhau: điểm này với điểm khác, trong khi tất cả có thể
được truy nguyên từ Lời Chúa, là một cách diễn tả Lời này. Huấn giáo có thể nhấn
mạnh đến nguồn này hơn nguồn khác và trên nguồn khác, tùy vào tham dự viên và bối
cảnh, nhưng phải quân bằng và không một chiều (chẳng hạn như, một huấn giáo
hoàn toàn theo Thánh Kinh, phụng vụ hay thí nghiệm…). Trong số các nguồn, Thánh
Kinh rõ ràng là ưu việt bởi vì có một mối liên hệ đặc biệt với Lời Chúa. Theo một
nghĩa nào đó, các nguồn có thể là những cách dạy giáo lý.
Lời Chúa trong Thánh
Kinh và trong Thánh Truyền
91. Huấn giáo múc những sứ điệp của
mình từ Lời Chúa, là nguồn chính của nó. Cho nên, “điều thiết yếu là Lời được mặc
khải phong phú hóa tận gốc việc dạy giáo lý của chúng ta và tất cả mọi nỗ lực
truyền lại đức tin của chúng ta”. Thánh Kinh, vốn được
Thiên Chúa mặc khải, chạm đến nơi thâm sâu nhất của tinh thần con người dễ dàng
hơn bất cứ lời nào khác. Lời Chúa không cạn trong Thánh Kinh, bởi vì Thánh Kinh
là một thực tại sống động, linh hoạt, và hiệu nghiệm (x. Is 55:10-11; Dt
4:12-12). Thiên Chúa phán và Lời Ngài tỏ lộ trong việc tạo dựng (x. St
1:3 tt.; Tv 33:6, 9; Kn 9:1) và trong lịch sử. Trong những ngày
sau hết, “Ngài đã nói qua Con của Ngài” (Dt 1:2). Con Một của Chúa Cha chung
cuộc là Lời Chúa, Đấng ở cùng Thiên Chúa từ nguyên thủy, là Thiên Chúa, đã chủ
tọa công cuộc tạo dựng (x. Ga 1:1tt.), được sinh ra bởi người nữ (x. Gal
4:4) do quyền năng Chúa Thánh Thần (x. Lc 1:35) để sống giữa những kẻ
thuộc về mình (x. Ga 1:14). Khi trở về cùng Chúa Cha (x. Cv 1:9),
Người mang với mình thụ tạo mà Người đã cứu chuộc, vốn được tạo dựng trong Người
và cho Người (x. Cl 1:18-20).
92. Hội Thánh sống sứ vụ của mình trong
sự mong chờ việc tỏ hiện của Chúa vào ngày cánh chung. “Sự mong chờ này không
bao giờ là thụ động, nhưng là một động lực truyền giáo để loan báo Lời Chúa, Lời
là Lời chữa lành và cứu chuộc mọi người. Ngày nay cũng thế, Chúa Giêsu Phục
Sinh đang nói với chúng ta: ‘Các con hãy đi khắp thế gian và loan báo Tin Mừng
cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16:15)’”. Thực ra, “đức tin đến từ
những gì được nghe và những gì được nghe đến từ lời giảng dạy của Đức Kitô” (Rm
10:17). Qua việc giảng dạy và dạy giáo lý, chính Chúa Thánh Thần dạy, sinh ra một
cuộc gặp gỡ Lời Chúa, sống động và hữu hiệu (x. Dt 4:12). Trong dòng
Thánh Truyền, tư tưởng và các tác phẩm của các Giáo Phụ của Hội Thánh có một
vai trò quan trọng. Như một cách diễn tả của kinh nghiệm của Hội Thánh trong
quá khứ và của sự liên tục năng động hiện hữu giữa việc rao giảng của các môn đệ
đầu tiên và của chính chúng ta, nên điều hợp lý là đời sống
và các tác phẩm của các Giáo Phụ phải có một chỗ thích hợp trong số nội dung của
huấn giáo.
Huấn Quyền
93. Đức Kitô đã ban cho các Tông Đồ
và những người kế vị các ngài mệnh lệnh vĩnh viễn là rao giảng Tin Mừng cho đến
tận cùng trái đất, khi hứa với các ngài sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần (x. Mt
28:20; Mc 16:15; Ga 20:21-22; Cv 1:8), Đấng sẽ biến các
ngài thành thầy dạy nhân loại về ơn cứu rỗi, bằng cách truyền lại qua truyền khẩu
(Thánh Truyền) và qua văn tự (Thánh Kinh) Lời của Thiên Chúa. Huấn Quyền bảo
toàn, giải thích và truyền tải kho tàng đức tin, là nội dung của Mặc Khải. Theo
cơ bản, thì toàn thể Dân Thiên Chúa có nhiệm vụ bảo vệ và truyền bá kho tàng đức
tin, nhiệm vụ của toàn thể Hội Thánh là rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc.
Nhưng quyền dạy sứ điệp cứu độ cách chính thức và có uy quyền nhân danh Đức
Chúa Giêsu Kitô thuộc về Giám Mục đoàn. Cho nên, Giáo Hoàng Rôma và các Giám Mục
hiệp thông với ngài là những người quản thủ Huấn Quyền của Hội Thánh. Trách nhiệm
chính của các ngài là dạy dỗ Dân Thiên Chúa nội dung của đức tin và luân lý
Kitô giáo, cũng như thúc đẩy việc rao giảng nó khắp thế giới (x. LG 25).
94. Chân lý cứu độ tự nó luôn luôn
là một và không thể thay đổi. Tuy nhiên, với thời gian Hội Thánh mỗi ngày một
hiểu kho tàng mặc khải rõ hơn. Vì thế, một sự đào sâu và phát triển đồng nhất
có thể được khám phá, phù hợp với chính Lời Chúa. Như vậy, Huấn Quyền phục vụ Lời
Chúa và Dân Thiên Chúa bằng cách nhắc lại những chân lý cứu độ của Đức Kitô,
làm sáng tỏ chúng và áp dụng chúng khi phải đối diện với những thách đố mới của
các thờim đại và hoàn cảnh khác nhau, đóng vai trò như một chiếc cầu nối giữa
Thánh Kinh và Thánh Truyền. Huấn Quyền là một cơ chế được Đức Kitô tích cực muốn
cách như một thành phần thiết yếu của Hội Thánh. Cho nên, Thánh Kinh, Thánh
Truyền và Huấn Quyền liên kết chặt chẽ với nhau và không một thành phần nào có
thể tồn tại nếu không có hai thành phần kia. Cả ba cùng nhau góp phần vào việc
cứu rỗi thế gian, mỗi thành phần theo cách riêng của mình (x. DV 10). Việc dạy
giáo lý, trong số những việc khác, là một trung gian của những công bố của Huấn
Quyền.
Phụng Vụ
95. Phụng vụ là một trong những
nguồn thiết yếu và không thể thiếu được của việc dạy giáo lý của Hội Thánh,
không những vì việc dạy giáo lý có thể rút nội dung, ngữ vựng, hành động, và lời
của đức tin từ phụng vụ, nhưng trên hết bởi vì phụng vụ và việc dạy giáo lý thuộc
về nhau trong chính hành vi tin. Mặc dù mỗi thứ có sự đặc thù của mình, phụng vụ
và việc dạy giáo lý, hiểu theo ánh sáng của truyền thống Hội Thánh, không được
đặt cạnh nhau nhưng thay vào đó phải được nhìn đến trong bối cảnh đời sống Kitô
hữu và Hội Thánh, như cả hai được quy hướng về việc làm sống lại kinh nghiệm về
tình yêu của Thiên Chúa. Thực ra, nguyên tắc cổ điển lex crdendi lex orendi
nhắc lại rằng phụng vụ là một yếu tố không thể thiếu được của Thánh Truyền.
96. Phụng vụ là “một chỗ ưu tuyển
để dạy giáo lý cho Dân Thiên Chúa”. Không được hiểu điều này
theo nghĩa là phụng vụ phải mất đi đặc tính cử hành của nó và biến thành việc dạy
giáo lý hoặc việc dạy giáo lý chỉ có vẻ bề ngoài. Mặc dù thật đúng là cả hai
đóng góp phải giữ nguyên đặc tính của mình, nhưng phải nhìn nhận rằng phụng vụ
là tột đỉnh và nguồn mạch của đời sống Kitô hữu. Thực ra, việc dạy giáo lý được
khởi sự bằng một cuộc gặp gỡ hiệu quả đầu tiên giữa người học giáo lý và cộng
đoàn cử hành mầu nhiệm, nghĩa là việc dạy giáo lý đạt được thành quả trọn vẹn của
mình khi người học giáo lý tham gia vào đời sống phụng vụ của cộng đoàn. Vì vậy,
không được nghĩ rằng việc dạy giáo lý chỉ để chuẩn bị cho các bí tích, nhưng phải
hiểu nó trong liên hệ với kinh nghiệm phụng vụ. “Việc dạy giáo lý tự bản chất được
nối kết với toàn thể hoạt động phụng vụ và bí tích, vì chính trong các bí tích,
đặc biệt là trong bí tích Thánh Thể, Đức Chúa Giêsu Kitô hoạt động một cách
viên mãn trong việc biến đổi con người”. Do đó, phụng vụ và việc dạy
giáo lý không thể tách rời nhau được nhưng nuôi dưỡng lẫn nhau.
97. Cuộc hành trình đào luyện của
Kitô hữu như được chứng minh trong huấn giáo hiệp nhiệm của các Giáo Phụ
Hội Thánh, luôn luôn có một đặc tính thử nghiệm, nhưng không bao giờ coi thường
sự hiểu biết về đức tin. Cuộc gặp gỡ sống động và thuyết phục với Đức Kitô được
rao giảng bởi những nhân chứng thật là điều khẩn cấp. Cho nên, người giới thiệu
người khác vào mầu nhiệm trước hết phải là một nhân chứng. Cuôc gặp gỡ tìm thấy
nguồn mạch và cao điểm của nó trong việc cử hành bí tích Thánh Thể, và được đào
sâu qua việc học giáo lý.
98. Nhu cầu cho một cuộc hành
trình hiệp nhiệm nảy sinh từ cấu trúc cơ bản này của kinh nghiệm Kitô giáo, từ
đó xuất hiện ba yếu tố chính:
a. Việc giải thích các nghi lễ
trong ánh sáng của các biến cố cứu độ, theo Thánh Truyền của Hội Thánh, tái giải
thích các mầu nhiệm của cuộc đời Chúa Giêsu và mầu nhiệm Vượt Qua của Người
trong mối liên hệ đặc thù với toàn thể quá trình của Cựu Ước;
b. Một nhập môn vào các dấu chỉ của
phụng vụ, để huấn giáo hiệp nhiệm có thể đánh thức và giáo dục sự nhạy cảm của
các tín hữu về ngôn ngữ của các dấu chỉ và hành động, vốn cùng với các lời, tạo
thành nghi lễ;
c. Việc trình bày ý nghĩa của các
cuộc cử hành trong tương quan với toàn thể đời sống Kitô hữu, để nhấn mạnh đến
mối liên hệ của phụng vụ với trách nhiệm truyền giáo của người tín hữu và gia
tăng ý thức rằng cuộc đời của các tín hữu được từ từ biến đổi bởi mầu nhiệm được
cử hành.
Tuy nhiên, khía cạnh hiệp nhiệm của việc dạy
giáo lý không thể được thu gọn thuần túy thành cuộc thám hiểm của khai tâm Kitô
giáo sau khi lãnh nhận các bí tích, nhưng cũng phải bao gồm việc tháp nhập vào
phụng vụ Chúa Nhật và các ngày lễ của năm phụng vụ mà với nó, Hội Thánh đã nuôi
dưỡng những người dự tòng và các trẻ em đã được rửa tội lâu ngày trước khi các
em có thể lãnh nhận bí tích Thánh Thể hay bắt đầu học giáo lý một cách có tổ chức
và hệ thống.
Chứng từ của các Thánh
và các vị Tử Vì Đạo
99. Ngay từ các thế kỷ đầu, gương
của Đức Trinh Nữ Maria và đời sống của các thánh cùng các vị tử vì đạo đã là một
phần hữu hiệu và không thể thiếu được của việc dạy giáo lý: từ tác phẩm acta
martyrum đến passiones, từ những bức họa trên tường (fresco) và các
hình tượng trong các nhà thờ để củng cố các câu chuyện cho trẻ em và những người
không biết chữ. Các chứng từ về việc sống và chết cho Chúa mà các thánh đã cung
cấp là sequentiae sancti Evangelii thật sự, các câu Tin Mừng có khả năng
rao giảng Đức Kitô và làm sáng tỏ cùng nuôi dưỡng đức tin trong họ.
100. Hội Thánh coi các vị tử vì đạo
như những bậc thầy thời danh của đức tin, là những vị đã làm cho sự lan rộng và
việc hình thành ban đầu của cùng một đức tin được khả thi với những lao công và
đau khổ của các ngài. Trong các vị tử vì đạo, Hội Thánh tìm thấy hạt giống sự sống:
“simen est sanguis Christianorum [hạt giống là máu các Kitô hữu]”. Luật này không chỉ thuộc
về Kitô giáo thời sơ khai, nhưng chính
xác cho toàn thể lịch sử Hội Thánh cho đến thời của chúng ta. Thế kỷ thứ XX, vốn
được gọi là kỷ nguyên của tử vì đạo, cho thấy rằng chính nó đặc biệt
phong phú trong các nhân chứng sẵn lòng sống Tin Mừng đến độ chịu thử thách tột
bực vì tình yêu. Chứng từ đức tin của họ phải được bảo vệ trong việc giảng dạy và
dạy giáo lý, nuôi dưỡng sự tăng trưởng của các môn đệ Đức Kitô. Những cuộc hiện
ra của Đức Mẹ Maria đã được Hội Thánh công nhận, đời sống và tác phẩm của các
thánh và các vị tử vì đạo thuộc mọi nền văn hóa và dân tộc là những nguồn thật
của việc dạy giáo lý.
Thần Học
101. Sự thật là Mặc Khải của Thiên
Chúa siêu vượt khả năng hiểu biết của nhân loại không có nghĩa là nó trái ngược
với lý trí của con người, nhưng thâm nhập và nâng cao lý trí. Việc tìm kiếm sự
hiểu biết về đức tin – hay thần học – như thế là một điều cần thiết không thể
thiếu được của Hội Thánh. “Công việc của thần học trong Hội Thánh trước hết là
phục vụ việc rao truyền đức tin và dạy giáo lý”. Nó thấm nhập các nội dung
đức tin với sự hiểu biết khẩn thiết, nghiên cứu chúng và xắp đặt chúng một cách
có hệ thống với sự đóng góp của lý trí. Tuy nhiên, Đức Kitô không phải chỉ được
nghiên cứu trong suy tư có hệ thống bởi lý luận mà thôi, vì Người là chân lý sống
động và “sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cor 1:24), Người còn là sự hiện
diện sáng tỏa. Tiếp cận khôn ngoan cho phép thần học tích hợp những bình diện
khác nhau của đức tin. Hơn nữa, thần học “đưa ra đóng góp của mình để đức tin
được thông truyền. Bằng cách mời gọi sự hiểu biết của những người chưa biết Đức
Kitô, nó giúp họ tìm kiếm và tìm thấy đức tin”. Nói chung thì khoa học thần
học đóng góp nhiều hơn vào việc dạy giáo lý và thực hành huấn giáo qua những
ngành chuyên môn khác nhau đặc trưng cho nó: thần học căn bản, thần học Thánh
Kinh, thần học tín lý, thần học luân lý, thần học linh đạo, vv…, và cách đặc biệt
hơn với ngành sư phạm giáo lý, thần học mục vụ, thần học về Phúc Âm hóa, thần học
về giáo dục và truyền thông.
Nền văn hóa Kitô giáo
102. Nền văn hóa Kitô giáo được
sinh ra từ ý thức về tính trung tâm của Đức Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng của Người,
là những gì biến đổi cuộc sống nhân loại. Qua việc từ từ thấm nhuần các nền văn
hóa khác nhau, đức tin Kitô giáo đã thích nghi, thanh lọc, và biến đổi chúng từ
bên trong, làm cho phong cách Phúc Âm hóa của nó thành một đặc điểm thiết yếu,
đóng góp vào việc tạo nên một nền văn hóa mới và nguyên thủy, nền văn hóa Kitô
giáo, vốn đã sản xuất ra các kiệt tác thật sự trong mọi ngành hiểu biết qua nhiều
thế kỷ. Nó hoạt động như một sự nâng đỡ và một phương tiện cho việc rao giảng Tin
Mừng, và bất chấp những đổi thay của lịch sử đôi khi được đánh dấu bằng những
xung đột về ý thức hệ và văn hóa, đã thành công trong việc bảo tồn các giá trị
Tin Mừng chân chính, chẳng hạn như tính độc đáo của con người, phẩm giá của sự
sống, sự tự do như một điều kiện của đời sống con người, sự bình đẳng giữa người
nam và người nữ, nhu cầu “tránh sự dữ và chọn sự tốt lành” (Is 7:15), sự
quan trọng của lòng cảm thương và tình đoàn kết, tầm quan trọng của tha thứ và
lòng thương xót cùng sự cần thiết của việc mở lòng ra cho sự siêu việt.
103. Tuy nhiên, trải qua nhiều thế
kỷ, các xã hội đã được nền văn hóa Kitô giáo đặc biệt hình thành đã đi đến một
cuộc khủng hoảng văn hóa là hậu quả của một chủ nghĩa tục hóa thái quá đã dẫn đến một quan niệm
sai lầm về tự lập. Chỉ những tiêu chuẩn dựa trên sự đồng thuận của xã hội hoặc
các ý kiến chủ quan là được chấp nhận, thường thì trái ngược với đạo đức tự
nhiên. “Sự tách biệt giữa Tin Mừng và nền văn hóa chắc chắn là thảm kịch của thời
đại chúng ta”. Cho nên, rõ ràng là cần phải có một sự hiểu biết mới về nền văn
hóa Kitô giáo, một nền văn hóa gặp gỡ, có khả năng hợp nhất, cho phép Tin Mừng phát ra
những sức mạnh của nhân loại thật, là hòa bình và công lý. Những sức mạnh này
là nền tảng cho nền văn hóa Kitô giáo làm cho đức tin được dễ hiểu hơn và đáng
ao ước hơn.
104. Nền văn hóa Kitô giáo đã đóng
một vai trò quyết định trong việc bảo tồn các nền văn hóa đã đến trước nó và
trong sự tiến bộ của nền văn hóa quốc tế. Nó có khả năng, chẳng hạn như, giải
thích theo một tinh thần mới những thành quả vĩ đại của triết học Hy Lạp và luật
học của người Rôma biến chúng thành gia sản của toàn thể nhân loại. Nó cũng
hình thành nhận thức về sự tốt lành, công bình, chân lý và thẩm mỹ, gợi ra việc
sáng tạo các tác phẩm – các văn bản văn chương và văn học, các sáng tác âm nhạc,
các kiệt tác về kiến trúc và hội họa – là những điều còn tồn tại như một chứng
từ cho sự đóng góp của đức tin Kitô giáo và tạo thành di sản kiến thức, luân lý
và mỹ thuật của nó.
105. Di sản này, có giá trị lịch sử
và nghệ thuật vĩ đại, là những ngồn tài nguyên gây hứng khởi và cải tiến việc dạy
giáo lý, trong đó, nó thông truyền cái nhìn Kitô giáo về thế giới với sức sáng
tạo của thẩm mỹ. Việc dạy giáo lý phải biết tận dụng di sản của nền văn hóa
Kitô giáo trong nỗ lực “[bảo tồn] giữa con người các khả năng chiêm ngắm và
quan sát là những gì dẫn đến sự khôn ngoan” (GS 56) và giáo dục các tín
hữu, trong thời kỳ phân hóa, đến một viễn cảnh của “con người toàn diện trong
đó những giá trị của trí tuệ, ý chí, lương tri và tình huynh đệ được trổi vượt.
Tất cả những giá trị này đều bắt nguồn trong Thiên là Chúa Đấng Tạo Hóa, cùng được
phục hồi và nâng cao một cách kỳ diệu trong Đức Kitô” (GS 61). Di sản
văn hóa Kitô giáo vĩ đại, được trình bày theo suy nghĩ của những người tạo ra
chúng, có thể làm trung gian một cách hiệu quả việc nôi tâm hóa những yếu tố
chính của sứ điệp Tin Mừng.
Thẩm mỹ
106. Thánh Kinh trình bày một cách
không sai lầm rằng Thiên Chúa là nguồn mạch của mọi sự huy hoàng và thẩm mỹ. Cựu
Ước cho thấy rằng việc tạo dựng, với con người ở cao điểm, như một điều gì tốt
lành và xinh đẹp, không mấy theo nghĩa trật tự và hài hòa nhưng theo nghĩa vô vị
lợi, thoát khỏi chủ nghĩa thực dụng. Trong sự hiện diện của việc tạo dựng, là điều
phải được ngưỡng mộ và chiêm ngắm vì chính nó, một người cảm thấy kinh ngạc, xuất
thần, một phản ứng tình cảm và trìu mến.
Các công trình của con người, như Đền Thờ huy hoàng của vua Solômon (x. 1V
7-8), đáng được kính phục vì chúng được nối kết với Đấng Tạo Hóa.
107. Trong Tân Ước, mọi vẻ đẹp đều
được tập trung vào con người Đức Chúa Giêsu Kitô, Đấng mặc khải Thiên Chúa, vốn
“phản ánh vinh quang của Thiên Chúa và hình ảnh trung thực của bản thể Ngài” (Dt
1:3). Tin Mừng của Người thật quyến rũ bởi vì sứ điệp của Tin Mừng ấy xinh đẹp,
tốt lành, vui tươi, đầy hy vọng. Người: “đầy ân sủng và chân lý” (Ga
1:14), tự mình nhận lấy bản tính nhân loại, đã kể lại qua các dụ ngôn vẻ đẹp của
hoạt động của Thiên Chúa. Trong mối liên hệ của Người với con người Người đã
nói những lời đẹp đẽ mà với hiệu lực của chúng chữa lành tận đáy linh hồn:
“Tội con đã được tha” (Mt 2:5); “Tôi cũng không lên án chị” (Ga
8:11), “Thiên Chúa quá yêu nhân loại” (Ga 3:16). “Hãy đến cùng Ta, hỡi tất
cả những ai vất vả và gồng gánh nặng nề, Ta sẽ cho nghỉ ngơi” (Mt
12:18). Người đã thực hiện những hành động đẹp: Người đã chữa lành, đã
giải phóng, đã đồng hành với nhân loại và đã chạm đến các vết thương của nhân
loại. Khi chịu sự tàn nhẫn của án tử hình như một kẻ “chẳng còn dung mạo hay vẻ
duyên dáng” (Is 53:2), Người được nhận ra như “người bảnh bao nhất trong
số con cái loài người” (Tv 45:2). Bằng cách này, Người dẫn đưa nhân loại
đã được thanh luyện vào vinh quang của Chúa Cha, ở đó người ta thấy Người “ngự
bên hữu Đấng Oai Nghi trên trời” (Dt 1:3) và như thế đã tỏ lộ toàn thể
quyền năng biến đổi của cuộc Vượt Qua của Người.
108. Vì thế, Hội Thánh luôn luôn nhớ
rằng để đến tận tâm hồn con người, việc rao giảng Đấng Phục Sinh phải tỏa ra với
chân thiện mỹ. Theo nghĩa này, điều cần thiết là “mọi hình thức dạy giáo lý […]
phải chú trọng đến ‘con đường thẩm mỹ’ (via pulchritudinis)”. Tất cả những gì đẹp đều là con đường dẫn đến
gặp gỡ Thiên Chúa, nhưng tiêu chuẩn của sự đích thực của nó không thể chỉ là
tiêu chuẩn thẩm mỹ. Cần phải có sự phân định giữa vẻ đẹp thật và các hình thức
trông có vẻ đẹp mắt nhưng trống rỗng hay thậm chí có hại, như trái cấm trong vườn
địa đàng trần thế (x. St 3:6). Những tiêu chuẩn được tìm thấy trong lời
khuyên nhủ của Thánh Phaolô “những gì chân thật, những gì cao quý, những gì
chính trực, những gì tinh tuyền, những gì đáng yêu, những gì mang lại tiếng tốt,
và nếu có gì nhân đức, đáng khen, thì hãy nghĩ đến những điều đó” (Phl 4:8).
109. Thẩm mỹ luôn luôn thấm nhuần
và bất khả phân ly với sự thiện và chân lý. Do đó, chiêm ngắm vẻ đẹp gợi ra
trong lòng chúng ta những tình cảm vui mừng, thích thú, dịu dàng, sung mãn, đầy
ý nghĩa, như thế mở lòng chúng ta ra cho sự siêu việt. Cách Phúc Âm hóa này là con
đường thẩm mỹ, và như vậy mọi hình thức thẩm mỹ đều là nguồn của huấn giáo.
Trong việc chứng minh tính ưu việt của ân sủng, được tỏ lộ cách đặc biệt trong
Đức Trinh Nữ Maria; trong việc nói cho người khác biết về đời sống của các
thành như những nhân chứng thật của vẻ đẹp của đức tin; trong việc đặc biệt chú
ý đến vẻ đẹp và huyền bí của thụ tạo; trong việc khám phá và quý mến di sản phụng
vụ và nghệ thuật không thể tin được và bao la của Hội Thánh; trong việc đánh
giá cao các hình thức cao nhất của nghệ thuật đương thời, việc dạy giáo lý cho
thấy cách cụ thể vẻ đẹp vô cùng của Thiên Chúa, là điều cũng được diễn tả trong
các việc làm của con người (x. SC 122), và dẫn những người học giáo lý
hướng về món quà xinh đẹp mà Chúa Cha đã làm trong Con của Ngài.