TỬ TƯỞNG CỦA THÁNH CYPRIAN VỀ SỰ HIỆP NHẤT TRONG GIÁO HỘI CÔNG GIÁO VÀ ƠN CỨU ĐỘ TRONG ĐỨC KI-TÔ
Lm. Jos. Đồng Đăng
Trong
thư gửi tín hữ Ê-phê-sô, Thánh Phaolo Tông Đồ viết: “Chỉ có một thân thể,
một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên
Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi
người” (Ep 4, 5-6). Những lời trên đây đã trở nên một khẳng quyết dứt
khoát trong niềm tin của người Ki-tô hữu qua muôn thế hệ. Những lời
tuyên xức đức tin cụ thể và chi tiết này như trở nên khuôn khổ thiêng
liêng vững chắc cho Giáo Hội Chúa Ki-tô. Đây như là điểm quy chiếu, là
tiếng chuông cảnh tỉnh Giáo hội trước mọi cơn nguy biến.
Vào
thế kỷ thứ ba, Giáo hội đã trải qua bao cơn khủng hoảng đầy khó
khăn: khó khăn của sự chống đối, bóp méo hay phản bội. Giáo hội
tưởng chừng như bức tường sắp tới lúc ngã nghiêng. May thay, ý Chúa
nhiệm đã cho xuất hiện vị “chiến sĩ dũng mãnh” để bảo vệ ngôi nhà
Giáo hội. Đó là Thánh Giáo phụ Cyprian Carthage. Trong lúc Giáo hội
đang đối mặt với phái dị giáo, ly giáo và những cuộc bách hại đang
đe doạ đến sự hiện hữu và sự hiệp nhất hữu hình của Giáo hội
Chúa Ki-tô, Cyprian đã kịp thời đưa ra những lập luận kịp thời, mạnh
mẽ và khôn ngoan để bảo vệ Giáo hội thoát khỏi cơn nguy biến. Một
lần nữa, những tư tưởng của Thánh Phaolo trên đây lại được gióng lên
qua tác phẩm của Cyprian: De Ecclesiae Catholicae Unitate (về sự hiệp
nhất của Giáo hội công giáo). Dưới đây, người viết sẽ trình bày (1) bối cảnh Giáo hội thời Cyprian,
(2) lập luận về tính hiệp
nhất của Giáo hội, (3) vai trò
của giám mục trong Giáo hội và (4) biên giới của ơn cứu
độ.
1.
Bối cảnh Giáo hội
Vào năm 250, một cơn bách hại đạo khủng khiếp
đã nổ ra dưới thời trị vì của hoàng đế Đê-ci-us. Vị hoàng đế này
đã tung ra một chiến dịch buộc mọi công dân phải phụng thờ thần minh
để ủng hộ ông. Các Ki-tô hữu phải lựa chọn hoặc thờ ngẫu tượng
hoặc là bị phạt truất hữu tài sản, lưu đày và lao động khổ sai,
thậm chí chịu chết. Hậu quả là có nhiều người tử vì đạo, một số
đông bỏ đạo hoặc bội giáo, kể cả trong hàng ngũ giáo sĩ. Tuy nhiên,
sau cuộc bách hại ấy, những người bỏ đạo và bội giáo muốn trở lại
Giáo hội. Trước tình hình đó, giữa Rô-ma, đại diện là Đức Giáo
Hoàng Corneille và Cartharge, đại diện là Cyprian không tìm được sự
đồng thuận trong cách nhận những kẻ ‘sa ngã’ (Lapsi) trở lại Giáo
hội. Rôma chủ trương mềm dẻo, còn Carthage chủ trương cứng rắn; từ đó
dẫn tới việc ra đời ly giáo Novatien, theo khuynh hướng mềm dẻo.
Từ những biến động trên, Cyprien đã soạn thảo cuốn De Ecclesiae
Catholicae Unitate (về mối thống nhất của Giáo hội công giáo). Tác
phẩm khai triển hai ý tưởng chính: Giáo hội là duy nhất và Giám Mục
đoàn là “đoàn thể” phục vụ sự duy nhất này. Trước tác này được xem
như là thánh ca đề cao Giáo hội, mà theo ngài, Giáo hội vốn căn cứ
vào sự hiệp nhất với giám mục, đứng đầu là Phê-rô.
2. Tính hiệp nhất của Giáo hội
Thánh
Cyprian không đưa ra những định nghĩa hay mô tả mang tính thần học cao
siêu về Giáo hội. Ngài chỉ nói từ con tim cho những ai biết rằng họ
phải sống thế nào cho xứng hợp với đức tin mình đã lãnh nhận. Trong
khi Thánh Iréne thành Lyon dùng hình ảnh Thiên Đàng để chỉ Giáo hội
khi ngài nói rằng “Giáo hội là Thiên Đàng trên trái đất”
[the Church is Paradise on Earth] thì thánh Cyprian lại dùng hình ảnh
Người Mẹ để miêu tả về Giáo hội. Ngài đã trở nên nổi tiếng khi nói
rằng: “Kẻ nào không có Giáo hội làm Mẹ thì cũng không thể có Thiên
Chúa làm Cha”. Hình
ảnh Người Mẹ được Cyprian sử dụng cho Giáo hội giúp vị giám mục
thành Carthage này nhấn mạnh đến nguy cơ cho những ai rời bỏ Giáo
hội. Họ như chết đi về phần linh hồn. Bất kỳ ai tách khỏi cung lòng
của người mẹ sẽ không thể thở và sống được, vì “chất dinh dưỡng”
của ơn cứu độ sẽ bị đánh mất. Giáo hội tựa như Người Mẹ của những
người con sống trong mối dây liên kết chặt chẽ, là một tổ chức thiêng
liêng và là cuộc sống trong hoà bình và bác ái huynh đệ. Hơn nữa,
“sự duy nhất của Giáo hội còn là một bí tích”.
Sự duy nhất của Giáo hội đến từ sức mạnh thần linh và sự gắn kết
với các bí tích, đó là lý do tại sao bất kỳ ai không liên kết chặt
chẽ với mối hiệp nhất này, không tuân giữ luật Chúa, không tin tưởng
vào Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh Thần thì sẽ không có ơn cứu
độ. Đó là lý do khi ngài nói: “phá vỡ sự hoà bình và mối hiệp
nhất của Chúa Ki-tô (trong Giáo hội) là cố gắng phá vở sự duy nhất
trong Thiên Chúa Ba Ngôi”.
Giáo hội được phân tán trên khắp thế giới, tuy nhiên sự phân tán này
không ảnh hưởng đến tính duy nhất bởi vì nó giống như các thành viên
cùng sống trong sự duy nhất của một thân thể. “Các giám mục sống ở
nhiều địa phận khác nhau nhưng cấu thành một và cùng một chức giám
mục”.
Giáo hội là một dù nó có nhiều cộng đoàn lan toả trên khắp thế
giới, giống như mặt trời có nhiều tia nắng nhưng cũng là một ánh
sáng, như cây có nhiều cành nhưng cùng có chung một bộ rễ mạnh mẽ
và chắc chắn, như con nước có nhiều dòng suối nhưng cùng chung một
nguồn nước… Nếu ta tách rời các tia sáng ra khỏi ông mặt trời, tia
nắng đó sẽ không còn sáng nữa; nếu cắt các dòng suối khỏi nguồn
nước, chúng sẽ khô cạn; nếu tách biệt các cành cây khỏi thân cây,
chúng sẽ chết khô. Giáo hội toả chiếu ánh sáng của Con Thiên Chúa
và ánh sáng đích thực này sẽ rợp bóng trên trên trái đất, bởi vì
Thiên Chúa là một và cho mọi người. Bởi vậy, dù ta có nấp bóng sau
rặng cây thì mặt trời vẫn chiếu sáng, dù ta có chối Chúa nhưng Chúa
vẫn không chối bỏ chúng ta. Cũng như khi chúng ta xa lìa ánh sáng mặt
trời, chúng ta sẽ lạnh lẽo; nếu chũng ta xa Chúa, tâm hồn chúng ta
sẽ quạnh quẽ cô đơn. Giáo hội là Mẹ, nhờ Người chúng ta được sinh ra
và được bú mớm và trưởng thành. Dù trong những nỗi đau khổ cùng
cực hay ngược đãi, nhờ ân sũng của Chúa, Giáo hội hoàn vũ vẫn luôn
chứng minh rằng Giáo hôi là một và không thể chia lìa. Giáo hội ấy
vẫn luôn luôn là một trong một thân thể duy nhất có Chúa Ki-tô là
đầu.
Để
nhấn mạnh tư tưởng về sự duy nhất của Giáo hội, thánh Cyprian đã
liên kết mối dây khăng khít này với Thiên Chúa, với Phép Rửa Tội.
Ngài trích dẫn lời của Thánh Phaolo tông đồ gửi tín hữu E-phê-sô 4, 4
- 6: “Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để
chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một
phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên
mọi người, qua mọi người và trong mọi người”. Vậy, “chỉ có một Phép Rửa,
một Thánh Thần, Giáo hội được được đặt nền tảng trên thánh Phê-rô,
bởi một nguồn mạch và một nguyên lý duy nhất”.
Giáo Hội Công Giáo không bị phân chia bằng bất cứ giá nào nhưng được
liên kết chặt chẽ với nhau bởi bởi sợi dây liên kết là các giám mục
và linh mục là những người có mối liên hệ khăng khít với nhau.
Sự
hoà hợp là đặc tính căn bản của Giáo hội. Đây chính là sự kết
hiệp khăng khít và giản dị giữa mục tử và đàn chiên và giữa dân
Thiên Chúa, những người cùng chung một trái tim, một tấm lòng trong
mái nhà chung là Giáo hội Chúa Ki-tô. Và, Giáo hội Rô-ma là nguồn
hiệp nhất cho mọi Giáo hội: “Giáo hội đứng đầu mà từ đó phát xuất
sự hiệp nhất tư tế”.
Tuy nhiên, sự hiệp nhất này chưa có nghĩa giám mục độc nhiệm, mà căn
cứ vào mầu nhiệm Ba Ngôi. Sau nay, Công Đồng Vatican II trong Hiến chế
tín lý về Giáo Hội đã khẳng định: “Giáo hội xuất hiện như “đoàn
dân được thống nhất bởi sự hiệp nhất giữa Ngôi Cha, Ngôi Con và Thánh
Thần”.
Nền
tảng đích thực của mối hiệp nhất trong Giáo hội chính là sự thống nhất và hoà hợp của Thiên
Chúa được mạc khải và đạt tới đỉnh điểm nơi Con Một Của Ngài là
Đấng đặt nền tảng cho Giáo hội trong cùng một Thánh Thần. Thiên
Chúa, Chúa Ki-tô, Giáo hội và đức tin đã hoà quện nên một. Đây là mô
hình mà thánh nhân dùng để hiểu dân Thiên Chúa vốn được nối kết
trong một thân thể duy nhất thông qua mối dây liên kết, là mối dây ràng
buộc lẫn nhau. Giáo hội đó được đặt nền tảng trên Thánh Phê-rô. Và
dĩ nhiên, đứng đầu Nhiệm Thể Giáo Hội chính là Chúa Ki-tô. Trong Chúa
Ki-tô, mọi thành phần trong Giáo hội được liên kết với nhau trong mối
dây đượm tình huynh đệ. Sự hiệp nhất trong Giáo hội còn được diễn
tả bằng một hình ảnh rất đẹp, được biểu tượng hoá bởi tấm áo
choàng của Chúa Giêsu. Tấm áo mà khi Ngài bị đóng đinh, quan dữ đã
rút thăm ai được thì lấy trọn vẹn mà không bị xé hay phân làm nhiều
mảnh. “Đây là một dấu chỉ mà ở đó Chúa Giêsu đã tuyên bố sự hiệp
nhất Giáo hội một cách đầy bí nhiệm”.
Như vậy, Đức Ki-tô là tâm điểm của linh đạo Ki-tô giáo, chính nơi Ngài
mà cuộc sống chung của các Ki-tô hữu được bén rễ sâu trong những
cảnh ngộ của đời sống hằng ngày. Tuy nhiên, sự hiệp nhất đó không
thể tách rời vai trò của các giám mục trong Giáo hội.
3. Vai trò của Giám mục trong Giáo
hội
Thánh
Cyprian còn nói, trong Giáo hội, chúng ta cần nghe lệnh truyền của
Chúa Ki-tô, “ để đứng vững trong Lời Người, để học và thực hành bất
cứ điều gì Ngài dạy và làm”.
Để vâng theo lệnh truyền của Chúa Giêsu thì tình yêu Chúa và yêu tha
nhân cũng có nghĩa là ở trong mối hiệp nhất với thân thể Chúa Ki-tô.
Không só sự hiệp nhất nào nằm ngoài sự vâng phục trong tình yêu.
Tình yêu dành cho tha nhân mà Chúa Giêsu dạy chúng ta là nền tảng cho
sự hiệp nhất trong Giáo hội. “Sự chia cắt trong Giáo hội sẽ đến khi
con người không còn tìm kiếm nguồn chân lý, là Đầu, là Chúa Ki-tô,
là Chúa Thiên Đàng”.
Dù rằng ai đó xa lìa Giáo hội, Giáo hội vẫn không lìa xa Chúa Ki-tô,
và sự gắn kết đó cũng không giảm sút khi có giám mục ở đó: “Giám
mục ở trong Giáo hội và Giáo hội ở trong giám mục”
(Ecclesia in episcopo, episcopous in Ecclesia). Nói cách khác, tính duy
nhất của Giáo hội hiện hữu là nhờ các giám mục, là những người
kế vị các tông đồ và qua sự thống nhất với giám mục đoàn như là
một thể thống nhất. Có thể nói rằng, các giám mục như là một thứ
“keo dán” để kết dính các thành phần trong Giáo hội lại với nhau.
Và các giám mục có vai trò làm nổi bật tính tông truyền của Giáo
hội, nhưng các ngài chỉ lãnh đạo Giáo hội trong sự tham dự vào sứ
vụ của Chúa Ki-tô là Chúa Tể. Đây là một khẳng quyết hết sức quan
trọng về bản chất của Giáo hội và sứ vụ của Giáo hội trong giai
đoạn đầy sóng gió lúc bấy giờ.
4. Biên
giới của ơn cứu độ
Thánh
Cyprian vốn nổi tiếng với câu nói: “Ngoài Giáo hội không có ơn cứu độ”. Thật
ra, trước Cyprian, Thánh Iréne thành Lyon đã viết ngoài giáo hội không
có ơn cứu độ, nhưng điều đáng nói là cách hiểu và sử dụng tư tưởng
này của hai ngài có phần khác nhau. Thánh Iréne dùng tư tưởng này
để chống lại phái lác giáo ngộ đạo: ngài nói rằng Chúa Ki-tô phán
xét tất cả những ai ở ngoài Giáo hội; ngài có ý nói đến tất cả
những ai ở bên ngoài Giáo hội.
Trong khi đó Cyprian lại tỏ ra rất rõ ràng và minh bạch khi đề cập
đến dân Thiên Chúa là những người ở trong Giáo hội tông truyền. Ngài
đã viện dẫn Tin mừng theo Thánh Ma-thêu 12: 30: “Ai không đi với tôi, là
chống lại tôi; và ai không cùng tôi thu góp, là phân tán”. Để nhấn mạnh đến
nhiệm vụ của những người thi hành sứ vụ hiệp nhất, Thánh Cyprian
còn quảng diễn lời của Tin mừng Ma-thêu: “Ai thu góp bất kỳ nơi đâu
hơn ở trong Giáo hội Chúa Ki-tô là phân tán khỏi Giáo hội Chúa Ki-tô” (He who gathers elsewhere than in the Church
of Christ, scatters the Church of Christ). Với những ai sống trong nỗi
sợ hãi sự bách hại và có xu hướng nghiêng về phái ly giáo, Cyprian
nói rằng những ai lìa xa Giáo hội chính là nổi loạn chống lại sự
bình an trong Chúa Ki-tô và chống lại sự hiệp nhất của Giáo hội.
“Nào có ai kín múc nước từ nguồn nước của Giáo hội lại không ở
trong Giáo hội chứ”?
Câu hỏi đó như ngụ ý rằng ai mà như thế thì kể như là một tên kẻ
trộm vậy. Ngài lập luận theo logic của tam đoạn luận rằng Giáo hội
được xây dựng trên nền tảng là Thiên Chúa vì thế bất cứ ai không ở
lại trong sự hiệp nhất với Giáo hội thì không thể nắm giữ được đức
tin đích thực nơi Thiên Chúa. Do đó, chỉ những ai không bén rễ sâu trên
các giới răn và lệnh truyền của Chúa thì mới lìa xa Giáo hội. Nếu
ai ở ngoài Giáo hội thì sẽ bị diệt vong bởi vì chỉ trong Giáo hội,
Chúa Giêsu Ki-tô mới ban cho sự sống đời đời và bởi vì ngoài Giáo
hội không có ơn tha tội”.
Như
vậy, ơn cứu độ chỉ có duy nhất trong Đức Ki-tô. Giáo hội chính là
sự sống trong Đức Ki-tô, là sự khôn ngoan và chân lý. Sống trong sự
hiệp nhất với Giáo hội là trong sự hiệp nhất thần linh. Cyprian nói
không có điều gì là hợp pháp nếu nằm ngoài Giáo hội và ai được
rửa tội trong Giáo hội thì có được chân lý sự sống của sự hiệp
nhất thần linh này. Không thể có danh xưng Ki-tô hữu cho những ai ngoài
Giáo Hội. Ngài còn nói chi tiết rằng những lời cầu nguyện và hy
sinh thậm chí là việc tử đạo nếu nằm ngoài Giáo hội thì cũng vô
ích. Phẩm chất của Ki-tô giáo có được là nhờ sự hiệp nhất trong
thân thể Đức Ki-tô chứ không phải nhờ bất cứ một đặc tính riêng biệt
nào ngoài sự hiệp nhất này.
Tuy
nhiên, dưới ánh sang của Công đồng Vaticanô II, chúng ta thấy rõ hơn biên giới
của ơn cứu độ. Những người sống ngoài Giáo hội hữu hình nhưng sống thành thật
thì không thể bị coi như người vì lỗi mình mà mất đức tin. Họ không biết đạo
Kitô và đồng thời theo một tôn giáo khác. Thật ra họ thuộc về Giáo hội một cách
mặc nhiên, nhờ thái độ sẵn sàng chấp nhận Chúa Kitô. Kẻ nào nghe theo tiếng
lương tâm và thành thật phụng sự Chúa chắc chắn sẽ được rỗi linh hồn. Vì chưng,
Chúa không thể loại bỏ những ai không đồng tình với sự sai lầm và cũng chưa
biết chân lý. Họ thuộc về hạng con cái của Chúa bằng ước muốn. Cả những ai bách
đạo cũng có thể được cứu rỗi, nếu họ hành động vì lòng ngay lành. Thánh Phaolô,
một người bách đạo đã phân trần: “Thuở trước tôi là một tên phạm thượng, một
người bắt đạo, một kẻ chửi bới hỗn xược, nhưng Chúa Kitô thương xót tôi vì tôi
thành thực trong hành động vô đạo” (1Tm 1,13). Như vậy, ơn cứu độ phổ quát
trong Đức Ki-tô.
Kết
luận
Những lập luận trên đây đã chứng tỏ Thánh
Cyprian là một vị giáo phụ nổi tiếng khi ngài đặt dấu “trọng âm”
(dấu ấn) cho ơn cứu độ được lãnh nhận nơi Giáo hội công giáo và trên
sự cần thiết của việc duy trì đức ái trong Giáo hội và trong sự
vâng phục sự hiệp nhất. Từ quan điểm này, thánh Cyprian đã được biết
đến như là một cá nhân xuất sắc, là người dẫn dắt, giảng dạy và
gây ảnh hưởng trên những người trong thời đại của ngài và cho hậu
thế. Thông qua việc khuyến khích các Ki-tô hữu thời ngài, từ việc
làm chứng cho tới việc tử đạo và qua sự tận tâm của đời ngài trong
việc phục vụ dân Thiên Chúa, Thánh Cyprian giữ một vị trí quan trọng
trong truyền thống Giáo hội công giáo. Chắc chắn rằng, tên tuổi của
Ngài còn sống mãi trong Giáo hội nhất là trong lãnh vực Giáo Hội
Học. Tuy nhiên, những tư tưởng của ngài cần được đọc dưới ánh sáng
của công đồng Vatican II, nhất là qua hiến chế Lumen Gentium, ở đó,
chiều kích ơn cứu độ được trình bày một cách phổ quát và theo
thiển ý cá nhân là “tích cực hơn”
so với Thánh Cyprian. Và sự mới mẻ đó đang đợi mỗi người trong chúng
ta khám phá và biện phân.
Tác giả:
Lm. Jos Đồng Đăng
|