BIẾN CỐ THĂNG THIÊN VÀ SỨ MỆNH TRUYỀN GIÁO
(Cv
1,1-11; Ep 1,17-23; Mt 28,16-20)
Dẫn nhập: Khi Liên xô thành
công trong việc phóng vệ tinh Spountnik thứ nhất lên không gian vào ngày 4
tháng 10 năm 1957, mở màn cho cuộc chạy đua chinh phục vũ trụ của thế giới và mở
ra bầu trời mới cho nhân loại khám phá, họ gọi đó là “ngày thứ tám của
công cuộc sáng tạo” và thốt ra những lời rất ngạo mạn: “Nếu có Thượng Đế thì các bác học
Nga-sô đã giết chết rồi. Kể từ bây giờ nhất định không còn Thượng
Đế nữa. Kể từ bây giờ rõ ràng đạo là thuốc phiện.” Và
vào ngày 12/04/1961, Yuri Gagarin, một phi hành gia Liên xô đã trở thành
người đầu tiên đáp phi thuyền bay vào vũ trụ. Ông đã trở về trái đất an toàn
sau 108 phút bay quay quanh trái đất. Sau cuộc du hành ngoạn mục, Gagarin
đã tuyên bố một câu xanh rờn: “Trong cuộc bay lượn giữa các vì sao, tôi chẳng
nhìn thấy Thiên Chúa đâu cả”. Vậy là, phi hành gia này đã không thể nhìn thấy
Thiên Chúa theo kiểu “nắm tận tay, day tận mắt” được. Thưa anh chị em, hôm nay,
cùng với Giáo Hội, chúng ta long trọng mừng lễ Chúa Thăng Thiên. Vậy, Chúa Thăng Thiên có ý nghĩa gì? và Chúa Thăng Thiên nhắn
nhủ chúng ta điều gì?
1. Chúa Thăng Thiên có ý nghĩa gì?
Về mặt từ ngữ,
thăng thiên có nghĩa là lên trời (thăng là lên, thiên là trời), tuy nhiên, việc
Chúa lên trời ở đây không phải là lên chín tầng mây theo kiểu chúng ta đi máy
bay; không phải như Tôn Ngộ Không nhún vai là vút vào không trung; cũng không
phải như cánh diều no gió bay vút lên tận trời xanh. Chúa không lên trời kiểu
đó. Vì thế, cho dù ai có nỗ lực đáp máy bay vào không trung để tìm cho kỳ được Thượng
Đế thì không thể được đâu!
Khi nói Chúa Lên Trời, tác giả
Kinh Thánh đang sử dụng kiểu nói bình dân. Theo đó, không gian được chia làm ba tầng. Tầng
dưới đất là âm ty, dành cho người chết. Tầng mặt đất mà ta đang sống là dương
gian. Và tầng trên mặt đất là trời. Chúa Giêsu đã sống trên mặt đất, khi chết
Người bị chôn trong lòng đất, đi vào cõi âm ty. Khi sống lại, Người trở về mặt
đất. Và hôm nay, sau khi sống lại và ở cùng với các môn đồ trong bốn mươi ngày, Người được đưa lên trời, bay lên đám
mây, ngự bên hữu Chúa Cha. Đó chỉ là một lối diễn tả bình dân. Thực ra, trời đâu phải
là một nơi chốn. Phận là con người có thân xác, chúng ta bị giới hạn bởi không
gian nên cần có một nơi chốn để cư ngụ. Còn Thiên Chúa không bị giới hạn bởi không
gian thì đâu còn bên tả bên hữu gì nữa. Trời
không phải là một nơi chốn, nhưng là một trạng thái, trong đó Ba Ngôi Thiên
Chúa sống chan hoà yêu thương. Vậy, lên trời hay lên thiên đàng không phải là
thay đổi nơi chốn nhưng là thay đổi cách thế hiện diện, là thay đổi sự sống, từ
sự sống hữu hạn của con người sang sự sống vô hạn của Thiên Chúa. Đức Giêsu lên
trời, Người trở về với Thiên Chúa, sống với Thiên Chúa, trong sự hiệp thông Ba
Ngôi là Cha và Con và Thánh Thần.
Việc Chúa Giêsu lên trời hướng
lòng chúng ta về ‘trời cao’, vì “quê hương chúng ta ở trên trời” (Pl 3, 20). Chúng ta hy vọng
rằng, trong Chúa Kitô, tất cả chúng ta cũng được bước vào đời sống hiệp thông với
Thiên Chúa theo một cách thế mới mà ta chưa từng thấy. Điều này có nghĩa là, bằng
cặp mắt đức tin, con người tìm thấy một nơi ở vĩnh cửu trong Thiên Chúa. Chúng
ta hy vọng sẽ được hiện diện theo cách thế mới của Người, đến độ chúng ta đi tới
Chúa Giêsu Kitô và kết hợp nên một với Người. Bởi lẽ Thiên Đàng không phải là
gì khác nhưng chính là một ngôi vị: Chính Chúa Giêsu là điều mà chúng ta gọi là
“thiên đàng”.
2. Chúa Thăng Thiên nhắn nhủ chúng ta điều gì?
Việc lên trời của Chúa Giêsu
nhắc chúng ta đang khi ngưỡng vọng về trời cao thì đừng quên bổn phận ở chốn “đất
thấp”. Chúa lên trời không phải là bữa tiệc chia tay nhưng trước hết và trên hết
là sự giao phó một công việc vẫn còn dở dang cho các tông đồ và cho chúng ta nữa;
đó là sứ vụ loan báo Tin mừng. Và đây là lời nhắn nhủ của Chúa dành cho các
tông đồ và cũng chính là cho mỗi người chúng ta: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi
và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha,
Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho
anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 18-20).
Như vậy, sứ vụ mà Chúa giao phó cho các tông đồ và chúng ta trước khi về trời
là truyền giáo.
Truyền giáo không phải là điều
gì tùy phụ nhưng là yếu tố gắn liền với bản chất, với căn tính của Giáo hội;
Giáo hội không có lý do để hiện hữu nếu không loan báo Tin mừng. Cũng vậy, chúng ta,
những người Kitô hữu - nghĩa là những người thuộc về Chúa Kitô, nếu
rời xa sứ vụ loan báo Tin mừng, chúng ta chỉ còn là những kitô hữu nửa
vời, hữu danh vô thực. Nói cách khác, nếu không loan báo Tin mừng, chúng ta
chỉ là “những Kitô hữu vô thần”, được che phủ bởi một lớp “vẹc-ni
Ki-tô giáo” - một lớp sơn Kitô giáo ngoài vỏ nhưng thực chất, cái lõi,
cái ruột Kitô hữu đã bị mục ruỗng rồi. Chớ gì mỗi chúng ta trở nên
chứng nhân loan báo Tin mừng vì chỉ có đời sống chứng nhân mới có sức làm lan
tỏa hương vị Tin mừng cho muôn dân. Thánh Giáo Hoàng
Phaolô VI đã từng nói: “Người đương thời sẵn sàng lắng nghe những nhân
chứng hơn là thầy dạy, hoặc nếu có nghe thầy dạy, thì bởi vì chính
thầy dạy cũng là những chứng nhân.” Quả vậy, việc Giáo
Hội cần làm là nêu gương, là lan toả niềm vui Tin Mừng chứ không phải
chiêu mộ tín đồ. Giáo Hội cần những chứng nhân sống để mang sứ điệp
Tin Mừng cho những người chưa nhận biết Chúa. Thật nực cười biết bao
cho những người chỉ như thanh la phèng phèng, “ngoài miệng thơn thớt
nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao.” Đó không phải là những chứng
nhân loan báo Tin mừng nhưng là những phản chứng, chỉ làm cớ cho người khác xa
Chúa mà thôi.
Để trở nên chứng nhân, chúng
ta được mời gọi thay đổi từ suy nghĩ, lời nói đến việc làm của mình. Nếu chúng ta
gieo những ý nghĩ tốt, chúng ta sẽ có những lời nói tốt; nếu chúng ta biết nói
những lời tốt, chúng ta sẽ có nhiều hành động tốt; nếu chúng ta gieo nhiều hành
động tốt, chúng ta sẽ có những thói quen tốt; nếu chúng ta gieo nhiều thói quen
tốt, chúng ta sẽ có nhân đức và nhân đức định dạng số phận chúng ta. Nhân đức
sẽ tỏa hương thơm của Tin mừng cứu độ.
Kết
luận: Tóm lại,
việc Chúa lên trời không phải là lên cao trong không gian theo nghĩa vật lý
nhưng là lên theo cấp độ sống, là sống cao hơn, mạnh mẽ hơn, tràn đầy hơn. Sự
sống đó đạt tới viên mãn trong sự hiệp thông ba ngôi Thiên Chúa. Chúa lên trời
cho chúng ta hy vọng một mai chúng ta cũng được lên trời với Người. Dù biết
rằng, những
Kitô hữu trên trần gian này không có một quê hương vĩnh cửu, nhưng tìm kiếm một
quê hương trong tương lai…người Kitô hữu xem xã hội hiện tại như một nơi tha
hương; họ thuộc về một xã hội mới là mục đích của cuộc lữ hành trần thế, và là
điều luôn được trông mong trong suốt cuộc lữ hành này”. Tuy vậy, nhưng người
Kitô hữu không sống theo kiểu “xuất thế”, nhưng là “nhập thế”, trở nên men,
muối cho đời và ánh sáng cho trần gian. Xin Chúa Giêsu, Đấng đã lên trời vinh
hiển, luôn ở cùng chúng ta, bênh đỡ chúng ta, hộ giúp chúng ta chu toàn bổn phận
nơi trần thế, mong mai ngày chúng ta cũng được lên trời vinh hiển, về cùng
Chúa, là cùng đích của đời sống chúng ta.
Tác giả:
Lm. Jos Đồng Đăng
|