CHÚA NHẬT 6A PHỤC SINH
Cv 8:5-8,14-17; 1Pr 3:15-18; Ga 14:15-21
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD
Hôm nay là lễ Chúa Thánh
Thần hiện xuống. Sách Tông Đồ Công Vụ sáu chương đầu nói về lịch sử
thành lập Giáo Hội tiên khởi ở Jerusalem. Qua bài đọc I (Cv 8:5-8,
14-17) và những câu trong Cv10: 44-48 & Cv 19:1-6, thánh Luca đã phân biệt
bí tích Thanh Tẩy nhân danh Chúa Giesu và sự tiếp nhận Chúa Thánh Thần. Trong
mỗi trường hợp, có ơn Chúa Thánh Thần đều phải thông qua một trong 12 tông đồ
như Phero và Gioan hoặc người đại diện như Phaolo. Đây là cách có vẻ hay nhất
mà Luca dùng để diễn tả nhiệm vụ của Giáo Hội trong việc cầu xin ơn Chúa Thánh
Thần. Những chỗ khác trong sách Tông Đồ Công Vụ, bí tích Thanh Tẩy và Chúa
Thánh Thần lại liên kết mật thiết với nhau (Cv 1:5; 11:16).
Vậy chúng ta học được gì từ
cảm nghiệm này? Bản văn của Luca trong Tông Đồ Công Vụ nói rõ ràng tặng
phẩm Chúa Thánh Thần không phải là một đặc ân cá nhân. Tuyên xưng Kinh Thánh
cũng không đơn thuần là do có óc thông minh hiểu biết, mà là một tiến
trình hiểu biết do cảm nghiệm về đức Giesu thành Nazareth, đấng đã chết trên
thập giá và phục sinh. Không một trở ngại nào -dù là bất toàn thể xác,
chủng tộc hay địa lý- có thể đặt con người ra ngoài ơn gọi cứu chuộc của Tin
Mừng. Thiên Chúa đã tích cực hoàn thành trọn vẹn mục đích của Người vì sứ mạng hoạt động của Giáo Hội (Lc 24:47;Cv 1:8).
Chúa Giesu đã để ý đến tất cả những ai có khả năng làm chứng nhân và Người huấn
luyện họ, thêm sức mạnh cho họ rồi sai họ đi khắp các nẻo đường để
rao truyền Lời Chúa.
HÃY
TÔN THỜ ĐỨC KITO LÀ THIÊN CHÚA NGỰ TRONG LÒNG
Bài đọc 2
thư thánh Phero (1Pr 3:15-18) nhắc nhở chúng ta là nhờ đức Kito chịu đau khổ và
chịu chết mà người công chính có thể cứu giúp kẻ bất lương (1Pr 3:18); nhờ sự
phục sinh, Người lấy lại đời sống mới trong Chúa Thánh Thần rồi thông phần cho
các tín hữu qua bí tích thanh tẩy rửa sạch mọi tội lỗi. Như gia đình ông Noah
được cứu khỏi cơn hồng thủy thì người Kito hữu cũng được cứu rỗi qua nước của
bí tích Thanh Tẩy (1Pr 3:19-22). Từ đó họ không còn phải sợ hãi như những kẻ
tội lỗi nhưng vui mừng trong đau khổ vì họ hy vọng trong chúa Kito. Sự vô tư
hiền hòa của họ sẽ làm cho những kẻ cáo buộc họ phải thất vọng (1Pr 3:13-16; Mt
10:28; Rm 8:35-39).
Lời thánh
Phero nói với Giáo Hội sơ khai hơn 2 ngàn năm xưa nay vẫn còn vang vọng nơi
chúng ta: “Hãy tôn thờ đức Kito là Thiên Chúa ở trong lòng anh em. Hãy luôn
luôn sẵn sàng cắt nghĩa cho bất cứ những ai hỏi anh em lý do anh em hy vọng,
nhưng hãy trả lời một cách hiền hòa và tôn kính với lương tâm trong sáng. Như
vậy khi anh em bị người ta phỉ báng, nói xấu vì anh em làm việc thiện
trong chúa Kito thì chính họ sẽ bị xấu hổ” (1Pr 3:15ff).
Lý do chúng ta hy vọng là
gì? Xin phép nhắc lại một phần bài giảng của Biển Đức XVI ở Rome trong
ngày lễ thánh Phero và Phaolo tông đồ hôm 29-6-2009:
“Rất vắn gọn, tôi muốn
lưu ý anh chị em về hai xác quyết khác trong thư 1 của thánh Phero liên quan
đến chúng ta ở thời đại ngày nay. Trước hết có một câu mà ngày nay chúng ta lại
khám phá ra, mà theo căn bản đó các thần học gia thời Trung Cổ hiểu biết bổn
phận thần học gia của mình: “Đức Kito là đấng thánh, hãy tôn Người làm Chúa ngự
trong lòng anh em. Hãy luôn luôn sẵn sàng cắt nghĩa cho bất cứ ai yêu cầu lý do
mà anh em hy vọng” (3:15). Niềm Tin Kito giáo là Hy Vọng. Nó lót đường cho
chúng ta đi tới tương lai. Nó là hy vọng với đầy đủ lý lẽ của nó, một hy vọng
mà chúng ta có thể và cần phải cắt nghĩa. Niềm Tin đến từ “Lý Chứng đời đời” đã
đi vào thế giới chúng ta và chứng tỏ cho chúng ta là Thiên Chúa thật. Niềm Tin
vượt quá khả năng của lý trí của chúng ta, cũng như tình yêu nhìn rõ tỏ mọi sự
hơn là đơn thuần thông minh. Nhưng Niềm Tin nói với lý trí và trong cách biện
chứng nó cũng phù hợp với lý trí. Nó không trái ngược với lý trí mà còn bổ sung
lý trí và vượt quá lý trí để đưa chúng ta đến với Lý Chứng vĩ đại hơn của Thiên
Chúa.
“Là mục tử thời đại, chúng
ta có bổn phận trước hết phải hiểu rõ lý do chúng ta tin. Bổn phận chúng ta
không chỉ đơn thuần giữ nó như một truyền thống mà phải nhận biết nó như
những giải đáp cho những câu hỏi mà người ta chất vấn chúng ta. Niềm tin đòi
hỏi sự cộng tác hữu lý của chúng ta, được ăn sâu và thanh hóa trong việc chia
sẻ tình yêu. Nó là một trong những bổn phận của người mục tử, là thấm nhuần
niềm tin vào ý nghĩ, khả dĩ có thể biểu lộ lý lẽ chúng ta hy vọng trong những
cuộc tranh cãi ở thời đại chúng ta.”
MỘT
TÂN TRẠNG SƯ ĐẶC BIỆT VÀ THƯỜNG TRỰC
Trong Tin Mừng Gioan, ý
nghĩa tiếng ‘mất’ trong số các môn đệ thì đã rõ ràng khi đức Giesu chuẩn bị xa
lìa họ. Phero hỏi Chúa: “Thầy sẽ đi đâu?” (Ga 13:36) và “Thưa Thầy, tại sao tôi
không thể đi theo Thầy ngay bây giờ?” (Ga 13:37). Đến điểm tột cùng này Chúa đã
trả lời: “Nếu anh em yêu mến thầy thì anh em sẽ giữ những giới răn của thầy. Và
khi thầy xin Cha thầy thì Ngài sẽ ban cho anh em một tân trạng sư là chúa Thánh
Thần của sự thật, mà trần gian không biết, nhưng sự hiện diện của ngài ẩn hiện
nơi các môn đệ (Ga 14:17). Lúc đó nền tảng của sự tin tưởng của chúng ta sẽ
được Chúa Thánh Thần hướng dẫn.
Danh từ trạng sư dịch từ
tiếng Hy Lạp là “paraclete” có liên quan đến luật pháp, có nghĩa là người biện
hộ. Nó cũng có nghĩa là phát ngôn viên, người trung gian, người an ủi giúp đỡ
và bảo trợ, mặc dù không có tiếng nào nói lên được ý nghĩa mà Gioan muốn ám
chỉ. Trong Gioan, từ “paraclete/trạng sư” nghĩa là thầy dạy, chứng
nhân cho đức Giesu và là bảo trợ viên của trần gian, người
đại diện thường trực của đức Giesu ở trần gian trong khi người
về cùng Cha người.
Đức Giesu chính là trạng
sư đầu tiên. (coi 1Ga 2:1), có nghĩa là đấng trung gian ở trên thiên
đàng. Trạng sư đến trong cộng đồng Kito giáo là dấu hiệu khởi đầu sứ mạng trần
thế thúc đẩy những Kito hữu của Giáo Hội sơ khai vượt quá khỏi giới hạn địa dư
của mình đi ra khắp bốn phương trời. Nếu đức Giesu là trạng sư trong khi Người
hiên diện ở trần thế, thì chúa Thánh Thần bây giờ là Tân Trạng Sư. Đức Giesu
sẽ lại xuất hiện khi Người trở lại. Vị trạng sư này là một người xa lạ nhưng là
bảo đảm cho lòng trung thành với chúa Giesu: “ Trạng sư là Chúa Thánh Thần
mà Cha thầy sẽ gửi đến nhân danh thầy, sẽ dạy dỗ anh em mọi sự và nhắc nhở anh
em những điều thầy đã nói với anh em” (Ga 14:26). Người còn nói thêm
là vị trạng sư này sẽ làm chứng với tư cách thầy, đồng thời cũng làm cho các
môn đệ trở thành chứng nhân. Nhờ đoạn văn này, chúng ta nhớ lại sự bất ổn và sợ
hãi của các môn đệ nói ở phần khởi đầu của sách công vụ tông đồ. Khi Chúa Thánh
Thần đến, họ được soi sáng, can đảm hơn và trở thành chứng nhân một cách can
trường và trong sáng.
HY
VỌNG NHƯNG KHÔNG BÁM CHẶT VÀO QUÁ KHỨ
Trạng sư không chỉ là bảo
đảm cho lòng trung thành và can đảm tuyên xưng mà còn là hướng dẫn đi tới tương
lai: “ Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em nhưng bây giờ anh em không có
sức chịu nổi. Khi Thánh Thần Sự Thật đến, Người sẽ hướng dẫn anh em đến sự thật
toàn vẹn. Người không tự mình nói điều gì nhưng Người sẽ nói lại cho anh em tất
cả những điều Người nghe và báo cho anh em biết những điều sẽ xẩy ra” (Ga
16:12-13). Sự hiện diện và hướng dẫn của Thần Linh Chúa làm cho các tông đồ
thêm sức mạnh tiến đến tương lai, sẵn sàng đương đầu với mọi thách đố một cách
đầy sáng tạo. Tông đồ đích thực thì trung thành với đức Giesu và sứ điệp của
Người, tuy nhiên họ không bị kẹt với quá khứ. Chính Thần Linh Chúa sẽ điều
chỉnh họ, giúp họ biết uyển chuyển để thích nghi với mọi hoàn cảnh nhưng luôn
luôn một mực trung thành và hy vọng.
KÝ
ỨC SỐNG ĐỘNG CỦA GIÁO HỘI
Tân trạng sư không phải là
đại diện được gửi đến để thay thế Chúa Giesu vắng mặt.. Trái lại, để bảo đảm sự
hiện diện của Người cũng như của Thiên Chúa Cha. Các ngài “sẽ cùng đến” để trọn
lời hứa của đức Giesu, và sẽ ở cùng với Người. Các ngài sẽ không ở với những kẻ
không yêu mến Chúa và giữ Lời Người. Trạng sư ở trong mọi người yêu Chúa và giữ
các giới răn Chúa, và vì vậy sự hiện diện của Người không bị giới hạn bởi thời
gian (Ga 14: 15-17). Trạng sư hiện diện nơi các môn đệ thời nay của chúa Giesu
cũng như Người ở với các môn đệ đầu tiên. Không một ai có thể nghĩ rằng đức
Giesu đã bỏ rơi Giáo Hội ngày nay của chúng ta. Chúa Giesu vẫn tiếp tục gửi đến
cho chúng ta Thần Linh Thiên Chúa sự thật. Chúng ta đã nghe và đọc Tin Mừng: “Đấng
mà Thiên Chúa Cha gửi đến cho chúng ta sẽ dạy chúng ta tất cả mọi sự và nhắc
nhở chúng ta tất cả mọi điều mà đức Giesu đã nói với chúng ta (c.26). Điều
nhắc nhở và gợi nhớ lại được diễn tả một cách tuyệt vời bằng những danh từ mới
trong sách Giáo Lý Công Giáo nói về công việc của trạng sư / chúa Thánh Thần: “Chúa
Thánh Thần là trí nhớ sống động
của Giáo Hội” (c.# 1099)
Sự xuất hiện của Chúa Thánh
Thần là dấu hiệu khởi đầu sứ mạng toàn cầu của người Kito hữu sơ khai vươt biên
giới của mình đi đến muôn nơi. Là Kito hữu, con người Giesu Kito là “khởi
điểm”của hy vọng và mục đích của chúng ta. Đức Kito đòi hỏi Giáo Hội biến muôn
dân trên khắp địa cầu thành môn đệ Chúa.”(Mt 28:19) Để hướng dẫn việc làm trong
sứ mạng của Giáo Hội, chúa Kito đã gửi chúa Thánh Thần xuống cho chúng ta. Đức
Giesu đã xác định Chúa Thánh Thần là Tân Trạng Sư, là “Thần Linh của Sự
Thật”, mà thế gian không biết vì Ngài ẩn dấu sự hiện diện của Ngài trong
các môn đệ (Ga 14:17). Lúc đó nền tảng sự tin tưởng của chúng ta là có Chúa
Thánh Thần hướng dẫn. Đức Giesu đã là trạng sư trong khi Người hiện diện ở trần
thế cùng với các môn đệ. Chúa Thánh Thần là Tân Trạng Sư, sự hiện diện của Ngài
là hướng dẫn Giáo Hội cho đến khi chúa Giesu trở lại lần thứ hai. Vị trạng sư
này là một người xa lạ, nhưng là bảo đảm cho lòng trung thành với chúa Giesu:
Vị trạng sư là Thần Linh Chúa mà Thiên Chúa Cha sẽ gửi đến cho anh em nhân danh
Thầy, sẽ dạy anh em mọi sự và nhắc nhở anh em tất cả những điều mà thầy đã nói
với anh em (Ga 14:26).
NTC