CHÚA NHẬT 3A MÙA CHAY
Xh 17:3-7; Rm 5:1-2, 5-8; Ga 4:5-42
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh,
MD
Để nắm bắt được ý nghĩa
bài đọc 1 sách Xuất Hành hôm nay (Xh 17:3-7), chúng ta cần nhớ lại những việc
xẩy ra ở chương 16: Đoàn chiên nhỏ bé của Thiên Chúa đã than trách ông Maisen
vì bị đói khát, thiếu đồ ăn nước uống. Thiên Chúa đã từng nghe tiếng than van
của dân vì bị cảnh nô lệ áp bức ở Ai Cập (Xh 3:7), bây giờ Người
lại phải nghe tiêng kêu than vì đói khát nên đã ban cho họ bánh manna và chim
cút. Ra khỏi Ai Cập, họ thiếu thức ăn, một thử thách mới của họ là thiếu
nước uống.
NƯỚC
VÀ THỨC ĂN TRONG CỰU ƯỚC
Trong câu 1 chương 17 sách
xuất hành (Xh 17:1), người kể truyện chỉ nói là dân chúng vì không có nước uống
đã gây lộn với ông Maisen. Có lẽ vì kinh nghiêm chuyện cũ, ông Maisen cho việc
dân cãi lộn với ông tức là cãi lộn với Chúa (Xh 17:2). Ông hành sử giống
như trong Xuất Hành 16:8: “Chúng tôi là gì? Các anh than trách không phải là
than trách chúng tôi, mà là than trách Thiên Chúa.” Trong khi ông Maisen để
ý đến chuyện bất hòa giữa dân với ông thì Chúa lại nghĩ khác: Chúa động lòng
trắc ẩn. Thiên Chúa của Israel đã không kết án những người Do Thái than van,
nhưng lại truyền cho Maisen tụ họp các kỳ mục lại rồi đưa họ lên núi Horeb chỗ
hòn đá, dùng cây gậy đập vào đó để có nước, cây gậy mà Maisen đã làm nhiều phép
lạ ở Ai Cập. Chúa lại nói cho Maisen yên tâm vì có Chúa hiện diện: “Còn ta,
ta sẽ đứng kia trước mặt ngươi” (c.6). Trước kia thì cho manna
và chim cút từ trời, bây giờ thì nước từ hòn đá, Thiên Chúa muốn chứng tỏ cho
dân Người biết Người là Chúa muôn vật. Hai từ Massah và Meribah có nghĩa là dân
Israel thử thách Thiên Chúa, “Anh em chớ có thử thách Thiên Chúa như đã thử
ở Massah (Tl 6:16; Tv 81:7). Khi dân chúng muốn thử Thiên Chúa là họ muốn
thấy có Thiên Chúa hiện diện với họ một cách rõ ràng. Hành động muốn thử thách
Thiên Chúa được cắt nghĩa ở câu 7b khi họ không tin có Chúa ở với họ.
CUỘC
ĐỐI THOẠI GIỮA NGƯỜI ĐÀN BÀ SAMARI VÀ CHÚA GIESU
Chủ đề khát và nước lại
tiếp tục trong câu chuyện Tin Mừng rất lý thú và gợi hình hôm nay. Chuyện người
đàn bà Samari gặp chúa Giesu vào chính ngọ ( Ga 4:5-42). Người đàn bà này là
một giáo lý viên nhiệt thành và cẩn thận nhất trong Tin Mừng Gioan. Câu chuyện
có lúc như khôi hài, lại không đúng với khung cảnh của giếng Jacob nằm sâu
trong lòng Samari. Giếng là giếng công chung cho tất cả mọi người, thì mọi
người phải ở đó cùng một lúc để lấy nước. Tại sao người đàn bà này lại đến
giếng vào chính ngọ? Có lẽ những người đàn bà khác ở trong làng đã muốn tránh
mặt bà vì tư cách của bà không đàng hoàng. Bà có 5 chồng, bây giờ lại
đang ở với một người đàn ông khác không phải là chồng (c.16-18)!
Theo phong tục, một người
đàn ông nói chuyện với một người đàn bà không chồng ở nơi công công thì rất
đáng nghi ngờ. Người Do Thái coi người đàn bà Samari không được trong sạch, do
đó họ không được uống nước do người đàn bà đó đưa. Vì vậy các môn đệ rất
ngỡ ngàng khi thấy Chúa Giesu nói chuyện với người đàn bà Samari này. Người đàn
bà đó đã hỏi Chúa Giesu: “Ông nghĩ rằng ông lớn hơn tổ phụ Jacob chúng tôi
sao, ngài đã cho chúng tôi giếng nước này, và ngài cùng con cháu chúng tôi đã
uống, cả đàn gia súc của ngài nữa” (c.12). Câu chuyện kết thúc bất ngờ khi
chúa Giesu yêu cầu bà ta: “Chị hãy đi gọi chồng chị đi !” Trong lúc đàm
thoại với người đàn bà, chúa Giesu đã tỏ lộ Chúa thực sự lớn hơn tổ phụ Jacob
và, Chúa đã ban một giao ước mới, một nghi lễ mới và một mạc khải mới.
Khi chúa Giesu đề nghị cho
người đàn bà “Nước Hằng Sống” thì bà
ta trả lời là “ông không có gầu để kéo nước vì giếng này sâu lắm”
(c.11). Người đàn bà lúc đó nghĩ nước Chúa nói là nước thông thương không phải
nước ao tù. Nhưng khi nghe nói về nước đưa đến sự sống vĩnh cửu thì bà ta hiểu
ngay và nói: “ Vậy xin ông cho tôi nước đó….” Nước sự sống nghĩa là nước
mặc khải mà chúa Giesu mang lại. Người đàn bà được Chúa Giesu mời gọi để nhìn
biết toàn thể vấn đề ở một mức độ mới: Có nước, rồi nước hằng sống; bánh và
thức ăn là ước nguyện của Thiên Chúa; Jacob và chúa Giesu; đấng thiên sai đã
hứa và chúa Giesu; ý niệm về thờ kính và thờ phượng thực sự; cứ thế mà tiếp
tục…Thờ phượng Chúa Giesu “trong Thần Khí và sự Thật” (c.23) không phải
là thờ phượng trong tâm trí mình. Thần Khí này là linh trí được ban cho anh em
bởi Thiên Chúa là Sự Thật và có khả năng giúp anh em thờ phượng Thiên Chúa một
cách thích đáng (Ga 14:16-17).
Người đàn bà khi khám phá
ra Chúa Giesu đã biết sự thật của bà thì liền bỏ gầu múc nước ở đó đi vào thành
kêu gọi mọi người ra gặp chúa Giesu: “Hãy đến mà coi! Đây là Người đã nói
với tôi tất cả mọi sự mà tôi đã làm. Ông ta chẳng phải là đấng thiên sai hay
sao?” Điều đó phải chăng cũng có lý khi chúng ta cảm thấy niềm tin của mình
bị xa sút, hay khi chúng ta làm một điều gì đó để khuyên giải người khác đến
với Chúa Giesu là Nguồn Mạch sự Sống?
NGƯỜI
SAMARI THỜI NAY
Trong bài Tin Mừng Gioan
hôm nay, chúa Giesu đã vượt qua rào cản văn hóa để đến với người đàn bà Samari.
Những người phụ nữ như bà đang sống bên lề xã hội thời tổ phụ. Những người phụ
nữ giống như bà đang phải còng lưng gánh nước về cho gia đình và gia súc. Những
hình ảnh này chúng ta thường nghe biết thấy trên báo chí truyền thanh truyền
hình và mạng lưới toàn cầu, những hình ảnh từ thế giới thứ ba đang kêu gào van
xin chúng ta một tình thương. Họ là những người đàn bà nội chợ, có trách nhiệm
việc nhà, bếp núc, giặt dũ, chăm nom con cái….
Một cách nào đó, khi người
đàn bà xin Chúa nước hằng sống có thể hiểu là một ao ước, thèm khát, trống rỗng
cần phải được bồi đắp cho đủ. Cuộc đàm thoại của Chúa với bà đã hoàn toàn biến
đổi bà. Cuối cùng, bà bỏ chiếc gầu “trống rỗng, khô cạn và thèm khát”
của bà bên bờ giếng rồi đi tìm những người mà trước đây bà và họ tránh né không
muốn gặp nhau. Bà chia sẻ với họ nỗi vui mừng khi bà được giải phóng lúc gặp
Chúa Giesu. Vì bị loại trừ, bị đẩy ra rìa xã hội, bà thèm khát được sát nhập,
được chấp nhận là thành viên của cộng đồng. Bây giờ bà được chúa Giesu chấp
nhận, bà đã có một nhân cách thực sự có ý nghĩa mà bà đã tìm kiếm và chờ mong
từ lâu!
Ngày nay, có nhiều “bà
Samari” dưới nhiều hình thức khác nhau đang ước mong được giải phóng. Họ khao
khát được mọi người hiểu và chấp nhận họ vào lại xã hội mà họ đã từng là thành
viên mà bị loại trừ. Hãy thử nghĩ đến nạn buôn người, những phụ nữ những cô gái
đang cần những người như Chúa Giesu biết lắng nghe nguyện cầu của họ, nói thay
cho họ và mang họ khỏi cảnh oan nghiệt sa đọa đó. Nhiều người nhìn họ như là
phạm nhân, cặn bã của xã hội, đẩy họ ra lề đường vì họ là tỵ nạn, di dân ra đi
để kiếm việc làm và an ninh tốt hơn để giúp đỡ gia đình. Tình trạng ghê gớm nào
ở trong gia đình, trong nước họ đã khiến họ phải phiêu lưu như vậy? Những hy
sinh mà họ đang chịu chỉ vì hoàn cảnh xã hội chính trị kinh tế và vì chính
những người thân yêu của họ. Họ cần được chúng ta giúp đỡ đòi lại nhân cách mà
Thiên Chúa đã ban cho họ.
Câu chuyện người đàn bà
Samari là một ẩn dụ về chính cuộc đời chúng ta, cuộc đời sa mạc bị bỏ quên, tội
lỗi và tuyệt vọng. Trong mùa chay này chúng ta đang chờ đợi những giòng nước
mát thống hối, tha thứ và tinh tuyền. Thống hối là nhận biết những nhu cầu của
chúng ta trong đời sống ở giữa sa mạc, nhu cầu phá bỏ những hàng rào ngăn cách
chúng ta và tha nhân, nhu cầu tìm nước hàng sống là nước làm cho ta thực sự hết
khát. Mùa chay mời gọi chúng ta đến với người phụ nữ Samari trong câu truyện
Tin Mừng hôm nay và những người phụ nữ Samari khác trên khắp thế giới và tất cả
những ai đang tha thiết cần sự sống. Chớ gì Thiên Chúa giúp chúng ta can đảm
đến với họ, lắng nghe họ, cho họ ăn, chia sẻ với họ nước sự sống.
Vào mùa chay 2011, Biển
Đức XVI đã viết:
“Lời Chúa Giesu nói với
người đàn bà Samari là: ‘Cho ta xin chút nước uống’(Ga 4:7) là diễn tả
cuộc khổ nạn của Chúa Giesu vì mọi người, đồng thời ước mong thức tỉnh trong
tâm chúng ta lòng mong ước có được tặng phẩm là “một suối nước nội tâm, chảy
cuốn đến đời sống vĩnh cửu” (Ga 4:14). Đây là tặng phẩm của Chúa Thánh
Thần, biến đổi những kito hữu thành “những tín đồ thực sự”, biết cầu xin Thiên
Chúa Cha “trong thần khí và sự thật” (Ga 4:23). Chỉ có loại nước này mới làm
cho chúng ta hết khát điều thiện hảo, sự thật và vẻ đẹp! Chỉ có nước này, do
Thiên Chúa Con ban cho, mới có thể tưới mát những tâm hồn khô cạn như sa mạc
luôn thao thức và bất mãn, cho đến khi nó tìm ra được sự yên nghỉ trong Chúa.
LỜI
KẾT: SỐNG MÙA CHAY THANH
1- Trong mùa chay, chúng
ta khao khát những gì? Và tìm kiếm những gì?
2- Suy niệm lời của Jean
Vanier dựa vào bài Tin Mừng hôm nay: “Những đổ vỡ của chúng ta như là vết
thương qua đó sức mạnh của Thiên Chúa có thể xâm nhập con người chúng ta và
biến đổi chúng ta. Cô đơn không phải là điều chúng ta phải xa lánh, nhưng từ đó
chúng ta có thể kêu van lên Thiên Chúa, nơi mà Thiên Chúa sẽ tìm thấy chúng ta
và chúng ta tìm thấy Thiên Chúa. Vâng, đúng vậy. Qua những vết thương của chúng
ta, quyền lực Thiên Chúa có thể xâm nhập chúng ta và trở thành giống như những
giòng sông có nước hằng sống để tưới ướt trái đất khô cằn trong chúng ta để rồi
chúng ta có thể tưới mát trái đất khô cằn của những người khác cho hy vọng và
tình yêu được tái sinh.”
3- Đọc các đoạn #97-98
“Lời Chúa và chứng nhân Kito hữu” trong Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng các
Giám Mục LỜI THIÊN CHÚA (Verbum Domini)
4-Tuần này chúng ta hãy
đến với những người sống bên lề xã hội vào giữa trưa, đúng giờ ngọ, không phải
ở giếng nước nhưng trong một quán café, lúc giải khát, tại bàn ăn, nơi công
viên hay khu thương mại của thành phố. Hãy lắng nghe một câu chuyện tang
thương, đau khổ, kinh hãi của một người nào đó. Hãy để cho nước hằng sống của
lòng trắc ân Chúa Kito chảy qua bạn rồi chảy sang tưới ướt cuộc sống sa mạc của
một ai đó.
NTC