Chuyển ngữ: Trần Mỹ Duyệt
Xin giới thiệu bản dịch tác phẩm KÍNH CHÀO NỮ VƯƠNG RẤT THÁNH.
Đây là tác phẩm Thánh Mẫu được một giáo sư thần học viết. Ông trước đây là một mục sư Tin Lành, nên những dẫn chứng và toàn bộ tác phẩm có nền tảng Thánh Kinh rất vững vàng. Sách có thể dùng làm sách giáo khoa hay dùng trong những đề tài trao đổi Thánh Kinh và Thánh Mẫu.
Nguyên tác: Hail, Mary Queen; Tác giả: SCOTT HAHN là giảng sư thần học và Thánh Kinh tại Đại Học Phanxicô ở Steubenville, và gần đây được Đức Giáo Hoàng Benedict XVI chỉ định Khoa Trưởng Thần Học Thánh Kinh và Tuyên Ngôn Phụng Vụ tại Đại Chủng Viện Saint Vincent. Ông là tác giả của hơn một tá tác phẩm, bao gồm The Lamb’s Supper; Hail, Mary Queen; Swear to God; và Understanding the Scriptures. Tiến sỹ Hahn còn là người sáng lập và chủ tịch của the St. Paul Center for Biblical Theology, ở Steubenville, Ohio, cũng là nơi ông đang sống với vợ ông là Kimberly, và sáu người con của họ.
Tác phẩm gồm 8 chương ngoài lời tựa, lời giới thiệu, phụ bản và kê cứu. Đặc San GSVN sẽ hân hạnh phổ biến mỗi kỳ một chương
CHƯƠNG 8
MỘT KẾT LUẬN
VỚI TÁI BÚT
KHÔNG MANG NGHĨA HỘ GIÁO
Bây
giờ bạn đã đọc gần hết cuốn sách này về Rất Thánh Đồng Trinh Maria. Có lẽ bạn
chuẩn bị để nói với bạn bè, các phần tử trong gia đình, hoặc đồng nghiệp là
những người Kitô hữu, nhưng có lẽ họ là những người có thái độ hồ nghi khi bàn
về giáo lý Đức Maria. Nếu bạn là nhà truyền giáo nhiệt tâm, thì tôi rất vui.
Tôi viết tác phẩm này để những anh chị em Công Giáo không bao giờ nên xấu hổ về
người Mẹ cao sang của mình, như tôi đã có lần cảm thấy xấu hổ về người mẹ trần
thế của mình khi mẹ tôi đến trường đón tôi.
Vâng.
Nhưng tôi cũng muốn lưu ý bạn, là bạn cũng không nên quá nhiệt thành, hay đúng
hơn, không nên nhiệt thành một cách sai lầm. Tôi xin bạn đừng bao giờ nên quên
rằng, khi bạn bảo vệ Rất Thánh Đồng Trinh, là bạn bênh vực cho người Mẹ của
mình, chứ không phải bênh vực cho một thủ quân, cũng không phải là người thủ
môn. Bạn chỉ nên bênh vực Người khi nào Người cần được bênh vực. Không người mẹ
nào xứng đáng với danh xưng khi muốn con mình tiếp tục phản đối để bảo vệ mình.
Không người mẹ nào xứng đáng với danh xưng khi muốn con mình bị đối xử tàn tệ
trong việc bảo vệ mình. Không người mẹ nào xứng đáng với danh xưng khi muốn trở
nên chủ đề của một cuộc cãi lộn ở sân trường.
Tôi
nói thế, bởi vì một đôi lần tôi gặp những người đã thực tập hộ giáo như người
chơi môn thể thao nhằm đánh gục đối thủ, hoặc như một cuộc tranh chấp không
khoan nhượng. Đối với những nhà hộ giáo này, mục đích là thắng cuộc tranh luận,
ngay cả khi nó mang ý nghĩa hạ nhục một cách rõ ràng “những đối thủ” của họ.
Đó
không phải là cách minh chứng những giáo lý về Đức Maria. Con cái của Đức Maria
không có kẻ thù. Chúng ta chỉ biết một điều: tất cả anh chị em trong Chúa Giêsu
Kitô - adelphoi - của chúng ta, đều từ
trong cùng dạ mẹ. Chúng ta không cần tranh luận nhiều với họ (mặc dù những cuộc
tranh luận đôi khi cần thiết), cũng như hãy yêu thương nhau (mặc dù đôi khi khó
khăn)
Hơn
thế nữa, chúng ta đừng bao giờ tự cao tự đại cho rằng, chúng ta biết nhận ra
mình như những người con của Mẫu Hậu. Chúng ta đừng bao giờ cho rằng, mình có
tất cả những câu trả lời, mặc dù những câu trả lời có thể luôn sẵn sàng đối với
chúng ta. Nên biết điều này, không ai sở hữu đầy đủ chúng. Thiên Chúa sẽ tiếp
tục để chúng ta khiêm nhường, để nhắc nhở chúng ta về những hạn chế của mình,
bằng cách để chúng ta vấp ngã và tự nhận mình không có những câu trả lời đúng
trong lúc cần. Ngay cả, Người sẽ cho phép những điều trên xảy ra, khi chúng ta,
đang mạo nhận là hành động cho mục đích tốt của Ngài.
Tôi
có thể làm chứng những điều này, vì chẳng bao lâu sau khi trở lại, Thiên Chúa
đã cho tôi hiểu được chúng.
***
Tôi
biết điều này từ khi bắt đầu cảm nhận như con cái trong căn nhà Giáo Hội Công
Giáo, và được những người Công Giáo khuyến
khích một cách nhiệt thành như thế nào khi đón nhận chứng từ trở lại của tôi
nơi bất cứ đâu tôi đi qua. Những thành phần bảo thủ và những người thuộc giáo
phái Tin Lành tin và nhấn mạnh tầm quan trọng của Phúc Âm, đặc biệt xác tín vào
những lời giảng dạy truyền thống dựa trên quyền lực và lịch sử Thánh Kinh
(evangeliscals), một đôi khi họ cũng có mặt trong những buổi thuyết trình của
tôi để thách thức tôi. Và tôi đã nóng nảy đối đầu với họ. Tôi biết những thắc
mắc của họ trước khi họ mở miệng nói - những thắc mắc mà chính tôi có lần cũng
đã ủng hộ họ - và tôi biết một cách chính xác câu trả lời đúng của Phúc Âm. Như
một nhà thiện xạ nhìn về phia con chim ở phần đất kế bên, tôi biết trước ngay
cả những thách đố này. Tôi rất thỏa mãn
như một ‘nhà hộ giáo nhiệt thành’.
Dù
được phấn chấn bởi những thành công, tôi đã tìm ra chính mình vào một cuối tuần
trong một khu xóm quanh chủng viện cũ thuộc giáo phái Tin Lành ở
Gordon-Conwell. Tôi đã quyết định quay lại và lưu ở đó một thời gian với vị
thầy của tôi. Tôi đã phục vụ như một trợ giảng. Người thầy của tôi xem ra như
sung sướng được gặp lại tôi, và ông đã mời tôi lưu lại nhà ông trong thời gian
ở thành phố này. Ông đã nghe, dĩ nhiên, về việc gia nhập Giáo Hội Công Giáo của
tôi, và ông ta hơi tỏ ra thất vọng. Ông nói với tôi là ông đang tìm dịp để thảo
luận vấn đề này với tôi một cách đầy đủ.
Tôi
biết là ông ta muốn thách thức tôi. Và tôi cũng nôn nóng để đáp trả.
Tôi
đã đến. Và chúng tôi chào hỏi nhau một cách thân mật. Những suy đoán của tôi
khá chính xác. Chẳng phải đợi lâu, vì vị chủ nhà và vợ của ông ta bắt đầu ‘rắc
tiêu’ tôi với tất cả những câu hỏi về Giáo Hoàng, luyện tội, Thánh Thể, chức
Linh Mục, Bí Tích Hòa Giải… Tất cả những điều đó đối với tôi đều diễn tiến tốt
đẹp, bởi vì suốt một ngày từ sáng đến tối, tôi đã như một võ sỹ không ngừng
nghỉ trong tư thế vừa ra đòn, vừa đỡ đòn.
Rồi,
khoảng chừng gần nửa đêm, khi tôi mong được nhắm mắt, bạn tôi nói với tôi:
-
Còn về Đức Maria lên trời như thế nào?
Tôi
hiểu những gì ông ta muốn nói, đó là không có một dấu chứng Phúc Âm nào về việc
lên trời của Đức Maria. Tôi đang mệt mỏi và bị trêu chọc, vì ông ta đã nêu lên
vấn nạn này vào ban đêm. Vì chưa chuẩn bị gì, nên tôi chỉ trả lời:
-
Vâng, ông có thể đọc thấy trong Khải Huyền 12 và ở đó, ông thấy Người đã được
đưa về trời cả hồn lẫn xác.
-
Tốt lắm Scott, ông ta nói tiếp: Nhưng xin anh cho tôi chứng từ về việc có ai
trong Giáo Hội đã tin điều đó trước thế kỷ thứ sáu?
Tôi
đã đáp lại rằng, trong suốt lịch sử, Giáo Hội đã không bao giờ tôn kính ngôi mộ
như nơi an nghỉ cuối cùng của thân xác Đức Maria.
Ngay
lập tức, ông đã chỉ ra rằng, tranh luận từ sự thinh lặng là một tranh luận yếu
kém mà người ta có thể dùng đến.
Tôi
nhận thấy ông ấy đúng. Nhưng tôi đã dẫn chứng rằng, trong thời gian cấm đạo,
Giáo Hội ít khi đưa ra những chứng từ của tín lý hoặc lòng sùng kính. Sống sót
và kiên trung là tiêu chuẩn chính của Giáo Hội vào những thời điểm đó.
Hai
vị chủ nhà đã không tỏ vẻ hào hứng.
Và
‘nhà hộ giáo nhiệt thành’ bắt đầu cảm thấy kết quả xứng đáng của một ngày về
những săn tìm, tranh luận, và một năm xứng đáng với sự kiêu hãnh khôn ngoan.
Tôi
đã ngượng nghịu để chỉ ra rằng, vâng, không chỉ đến thế kỷ thứ sáu việc lên
trời mới khởi sự được ghi lại trong tài liệu lịch sử của chúng ta. Nhưng ở thời
điểm đó, chúng ta gặp gỡ nó như trong giai đoạn khai sáng và phát triển, qua
những ngày lễ, những bài thánh ca, và văn chương. Khi vị hoàng đế tuyên bố nó
là ngày lễ của thế giới, người ta đã không thấy có trở ngại gì, ngay cả một dấu
hiệu của sự chống đối hoặc bàn cãi.
Những
vị chủ nhà của tôi đã mỉm cười:
-
Điều đó tốt và hay lắm, Scott. Nhưng sự thật là anh không có một cái gì để nói
về những thế kỷ im lặng đó sao?
Cho
đến lúc này, cuộc tranh luận của chúng tôi vẫn diễn ra tốt đẹp, nhưng tôi cũng
cảm thấy nó đang có gì thay đổi. Một cách nào đó, nó đang xoay ngược
chiều.
Tôi
đã trả lời:
-
Không. Tôi không thể nghĩ về bất cứ điều gì.
-
Anh có thể giới thiệu một cuốn sách? Bất cứ điều gì mà tôi nên đọc?
Tôi
lắc đầu.
-
Anh không có những câu trả lời từ năm thế kỷ đầu. Anh không có một cuốn sách
nào cho tôi đọc. Anh, người có một cuốn sách về tất cả, nhưng
lại không có một cuốn về lên trời!
Ông
ta khoan khoái thưởng thức giây phút chiến thắng này.
Tôi
nói:
-
Không.
-
Scott! Để tôi nhắc cho anh, đó là một tín lý, bất khả ngộ. Và
không lẽ anh không thể giải thích cho tôi tại sao đã có sự im lặng cả năm thế
kỷ?
-
Không biết. Tôi trả lời.
Đó
là giây phút kết thúc buổi trao đổi bi thảm mà nó kéo dài hàng giờ, và tất cả
những chiến thắng trước của tôi xem như số không. Tôi như bước những bước nặng
nề về phòng ngủ của mình, cảm giác như tôi đã làm cho mẹ tôi bị hạ nhục.
Tôi
ngồi trên giường, rồi qùy gối và cầu xin Chúa Giêsu ơn tha thứ. Tôi nghĩ tôi đã
hạ nhục Ngài bằng cách để Mẹ Ngài bị nhục. Tôi nghĩ như tôi đã chạy với một
trái banh trên con đường một gạch, chỉ dùng tay để chạm đến đích. Tôi đã thưa,
“Con xin lỗi Chúa vì sự yếu kém và thua bại của con.” Tôi đã đọc một kinh Kính
Mừng. Rồi tôi cảm thấy mệt mỏi và ngủ thiếp đi.
Họ
đã để cho tôi ngủ. Tôi thức dậy vào lúc chín giờ và một đĩa trứng chiên chờ tôi
ở trong bếp.
Khi
tôi ngồi xuống và bắt đầu điểm tâm sáng, tôi nhận ra rằng lịch sinh hoạt của
tôi hôm nay là Thứ Hai, ngày 8 tháng Mười Hai. Một cái gì đó về ngày này đã
xuất hiện trong trí nhớ. Có phải là một ngày lễ? Rồi tôi nhớ ra là đó là ngày
lễ Đức Mẹ Đồng Trinh Vô Nhiễm, ngày tôi trở thành người Công Giáo, và tôi suýt
quên mất nó, để tiếp tục như tôi đã từng là một người Tin Lành.
Tôi
ngập ngừng nói với những người chủ nhà:
-Hôm
nay là lễ buộc. Có cách nào tôi có thể… tham dự Thánh Lễ ở đâu đây không?
Bà
chủ nhà nói với tôi:
-Ồ!
Anh may mắn quá. Nhà thờ Thánh Phaolô ở ngay sau sân nhà tôi. Rồi bà còn gọi
xem thời khóa biểu giờ lễ, nhưng họ mới xong Thánh Lễ cuối cùng.
Bà
ta vẫn cố gắng gọi chừng 10 nhà thờ quanh vùng, hy vọng tôi có thể dự lễ trước
khi bay về. Sau cùng, bà cũng tìm ra một lịch trình của nguyện đường Dòng Cát
Minh ở trung tâm buôn bán Peabody cách đó 15 miles.
Một
lần nữa, bà đã gọi điện thoại và biết rằng còn một Thánh Lễ nữa vào lúc 12 giờ
trưa. Như vậy hy vọng đủ thời giờ để tôi tới đó, trở lại nhà và chủ nhà chở tôi
ra phi trường.
Và
tôi đã sẵn sàng để đi tham dự Thánh Lễ. Tôi tới
đó chỉ ít phút trước lúc trưa. Tôi hỏi những chỉ dẫn để tới nhà nguyện và chẳng
bao lâu tôi thấy mình trong đoàn người mua sắm Giáng Sinh, đang đi xuống một
cầu thang hẹp dẫn xuống tầng hầm. Ở đó, tôi thấy tôi ở giữa một gian phòng và
cả cộng đoàn đều phải đứng. Tôi tìm cho mình một chỗ đứng phía sau.
Tiếng
chuông rung lên, một vị linh mục cao niên bước ra. Ngài khoảng chừng bảy mươi
tuổi. Bất chợt, tôi bắt đầu lo lắng. Trời ơi, như vậy thì Thánh Lễ sẽ kéo dài
lắm!
Rồi
dù chỉ mới bắt đầu Thánh Lễ, tôi đã thấy mình bị chia trí, thường xuyên nhìn
vào chiếc đồng hồ, và nghĩ đến chuyến bay.
Nhưng
đến phần bài giảng, thì mọi chuyện đều thay đổi. Con người cao niên kia bước
lên bục giảng và đưa mắt nhìn chúng tôi. Rõ ràng là mọi người đều có thể nhìn
thấy tia nhìn trong mắt ngài. Ngài xem như đang nói trực tiếp với tôi: “Hôm
nay, chúng ta cử hành mừng kính Mẹ của chúng ta!”
Từ
đó, ngài bắt đầu giảng một cách hăng say. Billy Graham không là gì đối với con
người này:
“Nếu
có ai muốn hỏi bạn,” ngài cao giọng, “tại sao bạn tin rằng Đức Maria được đầu
thai không vướng nguyên tội? Bạn sẽ trả lời người đó như thế nào?” Ngài ngưng
lại.
“Bạn
sẽ trả lời người đó như thế nào?” Ngài ngừng lại một lần nữa.
Không
một chút suy nghĩ, ngài nói, “Hãy nói với người đó thế này: Nếu bạn có thể được
quyền tạo nên mẹ mình và đề phòng cho bà khỏi tội tổ tông, bạn có làm không?
Bạn có làm không?... Dĩ nhiên bạn sẽ làm! Với bạn thì không có quyền chọn lựa
và tạo nên mẹ của mình, nhưng với Chúa Giêsu lại có thể, và Ngài đã làm điều
này!”
Từ
đó trở đi, tôi thật khó cầm lòng cầm trí, không phải vì nghĩ đến chuyến bay, mà
tôi chỉ muốn được nói chuyện với vị Linh Mục này.
Khi
Thánh Lễ kết thúc, đám đông trở lại mua sắm, và tôi tìm đường đến phòng thánh
nhỏ của nguyện đường,
-
Thưa cha, cha dành cho con ít phút được không? Tôi hỏi vị linh mục.
-
Không! Ngài trả lời mà không cần nhìn mặt tôi.
Tôi
hỏi tiếp:
-
Thưa cha, vậy con xin cha nửa phút?
Sau
cùng ngài nhìn tôi.
-
Anh muốn cái gì?
Tôi
thưa với ngài:
-
Con là một cựu sinh viên của Gordon-Conwell, và là trưởng lớp, nhưng con mới
trở lại đầu năm ngoái.
Ngài
mỉm cười khi nói với tôi:
-
Gordon-Conwell, ở phía Nam Hamilton. Tôi đã dạy thần học tại đó.
Tôi thưa:
-
Không. Con nghĩ rằng cha không hiểu. Đó là một chủng viện của Tin lành
Evangelical.
Ngài
chau mày:
-
Không, bạn trẻ, tôi không nghĩ rằng anh hiểu. Vì tôi đã từng ở chủng viện
Carmelite, và tôi đã dạy ở đó hàng thập niên… Anh tốt nghiệp năm nào?
-
Tám mươi hai. Tôi đáp lại, tốt nghiệp thủ khoa, một người Calvinist kiên cường.
Con đã trở lại. Bây giờ con về để thăm trường, và nó bây giờ thật sự khác xưa.
- À
thế! Ngài nói, chúng tôi trao cho họ chủng viện của chúng tôi; họ trao lại cho
chúng tôi những sinh viên tốt nghiệp. Xem ra đó là một trao đổi song phương.
Rồi
ngài nhớ lại câu hỏi của tôi lúc bắt đầu gặp ngài.
-
Nào, vậy câu hỏi của anh lúc nãy định hỏi là gì?
Tôi
đã kể cho ngài toàn câu truyện của ngày trước đó, cao điểm là sự xấu hổ vào đêm
đó:
-
Cha giảng hay quá. Con xin hỏi là cha có biết cuốn sách nào để có thể giới
thiệu cho con không?
-
Anh có lý khi không thể nghĩ ra bất cứ cuốn nào trong những sách đó. - Ngài nói
tiếp - Không có tác phẩm nào được in trước đó. Chỉ có một, và nó đã hết vào
tuần trước.
Tôi
kinh ngạc:
-
Cha biết phân tích Phúc Âm về Đức Maria?
Ngài
trả lời:
-
Trong trường hợp này, tôi biết. Tôi đã viết một cuốn sách về chủ đề này.
Tôi
há hốc miệng. Tôi cảm thấy như mình đang bước vào vùng ánh sáng.
-
Đúng, tôi đã viết nó. Tựa đề là “Cuộc lên trời của Đức Maria”, và
tôi vừa biết là nó đã được bán hết vào tuần trước… Nhưng tôi còn giữ lại được
hai cuốn. Ngài đưa tay lấy từ tủ sách, rồi hỏi;
-
Tên giáo sư là gì?.
Tôi
đã trả lời ngài.
-
Anh đã kết hôn chưa? Tên vợ anh là gì?
-
Kimberly.
Nghe
xong, ngài đã ký tặng những cuốn sách với tên của mình - Linh Mục Kilian Healy,
O.Carm. - cho cả vợ và các bạn hữu của tôi nữa.
Rồi
ngài đột nhiên bước đi để lại tôi một mình choáng váng. Tôi lái xe về nhà người
bạn, thật kinh ngạc với lòng thương xót của Thiên Chúa.
Thời
giờ không còn nhiều, nên tôi phải vội vã chất hành lý lên xe để tới phi trường
Logan. Người bạn cựu giáo sư của tôi không đi chung, vì ông ta phải dạy sau
buổi trưa hôm đó. Cho nên, chúng tôi đứng bên lề đường và nói lời tạm biệt.
Tôi
nói với ông:
-
Câu cuối cùng Ông hỏi là về một cuốn sách về việc lên trời của Đức Maria, phải
không?
Tôi
đưa tay vào túi áo lấy ra cuốn sách của Cha Healy, trong khoảng 30 giây, tôi đã
lược sơ qua về cuộc gặp gỡ của tôi ở nguyện đường. Một cách vội vàng, tôi đã
giải thích rằng, đây là cuốn sách duy nhất thích hợp, và nó cũng vừa bán hết.
Nhưng tôi mới nhận nó từ tác giả lúc sau trưa khi gặp ngài ở khu thương mại.
Ông
ta lặng thinh.
Tôi
cảm thấy mình như một đứa trẻ. Tôi ‘chụp’ được hình ảnh Đức Maria xoa đầu tôi
trong trí tôi và nói, “Đừng quá lo lắng về việc bảo vệ Mẹ. Hãy yêu Mẹ, và yêu
Con Mẹ. Rồi khi gặp khó khăn, chúng Ta sẽ bổ túc cho những gì con thiếu sót.”
&
Khi
tất cả mọi khảo cứu cũng như khả năng hùng biện của tôi bị thua, khi tôi bị
hoàn toàn bẽ mặt vì tiêu chuẩn con người mình, khi tôi không thể làm gì hơn,
thì tôi đã làm những gì mà tôi đã bắt đầu: Tôi cầu cùng Mẹ Maria.
Lời
cầu nguyện đó tôi thực hiện vào buổi chiều của ngày, trong giây phút của sự yếu
đuối và nhục nhã sâu lắng. Nó đang chuyển hướng qua sự bất ngờ xảy ra này trong
đời sống tôi. Nó móc vào vòng chuyển động một dây xích những biến cố mà tôi
không thể vượt qua bằng những bài nói chuyện được chuẩn bị kỹ lưỡng nhất của
tôi.
Khi
cần để giải thích về Thánh Nữ Đồng Trinh Maria, chúng ta cần tình yêu nhiều hơn
là nhiều câu trả lời. Khi chúng ta bị thiếu sót, Người sẽ làm những kết quả lớn
lao từ những thiếu sót của chúng ta, khi chỉ có mình Mẹ có thể làm được. Mỗi
khi chúng ta bị xỉ nhục và cho thấy sự yếu kém, chúng ta nên sẵn sàng cho một
cái gì tốt đẹp hơn chúng ta có thể dự tính và chuẩn bị để hoàn thành.
Phúc-âm-hóa
với niềm vui, và với lòng tin tưởng. Nên biết ngay từ khởi sự rằng, bạn không
có tất cả mọi câu trả lời, nhưng Đấng Cứu Độ bạn thì có, và Ngài yêu Mẹ của
Ngài. Ngài sẽ ban cho bạn mọi sự bạn cần, ngay cả đôi lúc bạn cần sự thất bại.
PHỤ
LỤC
Những
Hạt Châu
Những
dịp để tôn vinh Mẹ của chúng ta - sinh nhật và kỷ niệm thành hôn, hoặc trong
phúng điếu - chúng ta là những người con có thể mong muốn nói nhiều, bởi vì
chúng ta xúc động thấy mình đến gần với tuổi thơ. Chúng ta cảm thấy mình phải
tìm bắt lại những ngày tuổi thơ này với Mẹ, và nhớ về nó, đền bù lại những giây
phút chúng ta đã không biết ơn đủ với sự săn sóc của Mẹ, cũng như tình yêu
chúng ta dành cho Mẹ thật ít ỏi so với tình thương bao la của Mẹ.
Khi
bắt đầu viết cuốn sách này, tôi đã cố gắng để giảm bớt những kỷ niệm mà một
cách nào đó gây đau khổ cho tôi, bao gồm thời gian khi lòng nhiệt thành bị
hướng dẫn sai lầm, khiến tôi đã coi thường vứt bỏ Cỗ Tràng Hạt cuối cùng của bà
tôi. Có lẽ, để hoàn thành phần phụ lục này, tôi nên quyết tâm sửa lại, mặc dù
tôi không sửa được những hạt trong Cỗ Tràng Hạt của bà tôi là Hahn. Những hạt
trong Cỗ Tràng Hạt đó đã bị ném vào thùng rác hơn ba mươi năm trước. Tuy nhiên,
tôi có thể sửa chữa. Tôi có thể bù đắp truyền thống của bà tôi trong gia đình
tôi, cũng như tôi bù đắp với Nữ Vương Thiên Đàng của tôi, Đấng mà bà tôi yêu
mến.
Những
Cách Thực Hành
Trải
qua hằng thiên niên kỷ, các Kitô hữu đã bày tỏ lòng yêu mến của mình đối với
Thánh Nữ Đồng Trinh bằng nhiều cách thức khác nhau. Những Kitô hữu tiên khởi đã
hành hương tới những nơi có liên quan đến cuộc đời Đức Mẹ. Các Giáo Hội Đông
Phương chịu ảnh hưởng của nghi lễ truyền thống Hy Lạp (Byzantium) đã viết những
bài thánh ca dài “Akathist” để tôn kính Người. Tín hữu Êphêsô đã khởi xướng một
truyền thống phong phú các lời kinh phụng vụ đối với Đức Maria. Tài liệu cho
thấy những tín hữu Ai Cập đầu tiên ghi chép lại tài liệu bằng kinh Trông
Cậy. Trong khi đó, Tây Phương hoàn tất “Kinh Lạy Nữ Vương,” Kinh
Hãy Nhớ, và nhiều kinh nguyện khác. Cả Đông và Tây đã hợp nhất trong
cùng một truyền thống tuyệt vời về nghệ thuật Thánh Mẫu - những tấm ảnh của
Đông Phương, và cả ảnh vẽ lẫn ảnh tượng của Tây Phương.
Tuy
nhiên, không ai nghi ngờ khi cho rằng phần đông tín hữu trong Giáo Hội đã diễn
tả lòng sùng mộ, sự tôn kính Đức Maria bằng Kinh Mân Côi. Kinh Mân Côi cũng là
cách thức diễn tả lòng yêu mến mà tôi tha thiết nhất.
Tràng
Mân Côi bao gồm một chuỗi lời kinh mà nó được đọc lên trong khi suy ngắm
những mầu nhiệm từ cuộc đời Chúa Giêsu và Đức Maria, bao gồm
15 mầu nhiệm.
NHỮNG
MẦU NHIỆM VUI MỪNG
Truyền
Tin (Lc 1:26-38): Thiên Thần Gabrien truyền tin
Đức Maria sẽ thụ thai Đấng Cứu Thế.
Thăm
Viếng (Lc 1:39-56): Đức Maria thăm viếng chị họ
Isave.
Giáng
Sinh (Mt 1:18-25; Lc 2:1-20): Chúa Giêsu giáng trần.
Dâng
Con (Lc 2:22-38): Đức Maria và Thánh Giuse lên
Giêrusalem và dâng Chúa Giêsu cho Thiên Chúa.
Tìm
Thấy Trẻ Giêsu (Lc 2:41-51): Trong cuộc hành hương lên đền thờ,
Chúa Giêsu tách khỏi Đức Maria và Thánh Cả Giuse.
NHỮNG
MẦU NHIỆM THƯƠNG KHÓ
Hấp
Hối Trong Vườn (Mt 26:36-46): Chúa Giêsu cầu xin để được cất
khỏi chén đắng.
Đánh
Đòn (Mt 27:26): Chúa Giêsu bị quân lính Rôma đánh
đòn.
Đội
Mão Gai (Mt 27:29): Lính Rôma chế nhạo Chúa Giêsu là
vua.
Vác
Thập Giá (Ga 19:17).
Chịu
Đóng Đinh (Mc 15:22-38): Chúa Giêsu sinh thì trên thập
giá.
NHỮNG
MẦU NHIỆM VINH QUANG
Chúa
Sống Lại (Mt 28:1-10): Chúa Giêsu sống lại từ cõi
chết.
Lên
Trời (Lc 24:50-51): Chúa Giêsu về trời cùng Chúa
Cha.
Chúa
Thánh Thần Hiện Xuống (Cv 2): Lễ Hiện Xuống đầu tiên của Kitô Giáo.
Đức
Maria Về Trời (Kh 11:19 - 12:10): Đức Maria được đưa về
trời cả hồn lẫn xác.
Đức
Maria Được Vinh Hiển (Kh 12:1): Đức Maria được đội triều thiên Nữ
Vương Trời Đất.
Trong
khi chúng ta suy ngắm về những mầu nhiệm này, chúng ta chú trọng vào việc đọc
những kinh trong “Tràng Mân Côi”, một từ có nghĩa căn gốc là một “Chuỗi
Hoa Hồng”.
Với
mỗi một mầu nhiệm, chúng ta đọc một kinh Lạy Cha và mười kinh Kính Mừng, tiếp
sau là kinh Sáng Danh. Tất cả những kinh nguyện này làm thành một chục hạt
Mân Côi. Thông thường chúng ta đọc 5 mầu nhiệm một lúc. Trong tài liệu chính
thức, Giáo Hội định nghĩa việc đọc một Chuỗi Mân Côi là năm chục hạt.
Trái
Tim, Đôi Tay và Lời Cầu
Đôi
khi những người ngoài Công Giáo coi thường việc lần Hạt Mân Côi, coi đó như một
trong những công thức vô nghĩa và máy móc. Một số sẽ khinh bỉ cách thực hành
này, viện dẫn lời Chúa Giêsu là không nên “lải nhải” khi cầu nguyện (Mt 6:7).
Nhưng việc làm gì cũng có mục đích của nó.
Trước
hết, Kinh Mân Côi không là kinh bắt buộc, nhưng không vô lý. Thật ra, việc thực
hành hình thức suy niệm này đã được định nghĩa từ nhiều thế kỷ, và đã khắc ghi
vào tâm trí chúng ta, ít nhất qua ba hình ảnh - với tiếng nói, cảm nhận của
những hạt mân côi, và chủ đích của những hình ảnh sùng kính - vì thế những ý
nghĩa này tự nó đã là một lời cầu. Những điều này nối kết thân xác và linh hồn
với lời cầu, khiến chúng ta ít chia trí.
Hơn
nữa, hình thức Tràng Mân Côi tự nó phong phú trong giáo lý Thánh Kinh và lòng
sùng mộ. Kinh Lạy Cha chúng ta học được từ môi miệng Chúa Giêsu. Kinh Kính Mừng
đến từ những lời Tổng Thần Gabrien và Thánh nữ Isave trong Phúc Âm Thánh Luca.
Và ai có thể tranh luận về những lời trong kinh Sáng Danh, những lời chỉ để
chúc tụng Thiên Chúa Ba Ngôi chí thánh?
Thông
thường những khuyết điểm tạo ra những lời phê bình đối với kinh nguyện Công
Giáo thì nhỏ và rất ít. Một cách nào đó, nhiều người Công Giáo cũng có ý nghĩ
rằng, kinh nguyện chung là không tốt, và rằng kinh nguyện đúng
nghĩa phải là sự đáp trả, tình cảm và sáng tạo. Nhưng, Chúa Giêsu đã không dạy
điều này. Trên thực tế, chính Ngài đã dùng lời cầu có sẵn của dân Israel xưa
(x. Mc 12:29; 15:34; Ga 7:10-14).
Chúa
Giêsu đã chỉ trích lối cầu nguyện dài lời, nhưng không phải tất cả lời kinh
được lập đi, lập lại là dài lời. Tôi nhớ lại nhìn một người nhạc sỹ Roch Công
Giáo bị choán ngợp bởi câu hỏi từ những người mà họ không thể hiểu ngôn từ của
người ấy về Công Giáo. Một phụ nữ đã hỏi: “Ông làm gì với những lời lập đi, lập
lại như vậy?”
Người
đó nhìn bà với một nụ cười hết sức trìu mến và nói, “Tôi không cần biết. Tôi là
một nhạc công chơi bass. Và đó là cái gì tôi tin tưởng.”
Đọc
ngoài miệng và lặp đi lặp lại cũng có thể tốt cho chúng ta và cho những mối
giao tiếp của chúng ta. Vợ tôi không bao giờ chán nghe tôi nhắc lại, “anh yêu
em”. Mẹ tôi không bao giờ chán nghe tôi nói lời cảm ơn về sự săn sóc của bà.
Những người hướng dẫn của tôi không bao giờ chán khi nghe tôi nói lời xin lỗi
về những khuyết điểm của mình. Thiên Chúa cũng vậy, không bao giờ chán khi nghe
chúng ta nhắc lại những lời được cho là để ngợi khen Ngài trong Phúc Âm,
và truyền thống Giáo Hội. Những người ngoài Công Giáo cũng biết điều này nữa.
Và vì thế, họ nghe người Công Giáo luôn vang lên lời “Amen”, “Alleluia”, và
“Chúc tụng Chúa”.
Truyền
thống đã xếp đặt những lời này, bởi vì chúng kết thành một tư tưởng đặc biệt,
hoặc một cảm nghĩ đặc biệt. Hơn nữa, những điều này có ý để làm sáng tỏ tư
tưởng hoặc ý nghĩ về cảm nhận không chỉ đối với người nghe, nhưng cả với người
đọc nữa. Tôi càng nói với vợ tôi là tôi yêu nàng, tôi càng cảm thấy thương
nàng. Tôi càng nói lời cảm ơn với mẹ tôi, tôi càng phải suy nghĩ về lòng hiếu
thảo đối với bà.
Cũng
vậy, tôi càng cất cao giọng, nâng đôi tay, và hướng lòng về những lời yêu mến
đối với Nữ Vương chúng ta, Mẹ của chúng ta, và Con của Người, chúng ta càng đi
sâu vào lòng sùng kính và sự thánh thiện.
Kinh
Mân Côi Phát Triển Như Thế Nào
Không
có chủ đề đặc biệt nào trong đời sống Kitô Giáo lại quá mẫn cảm đối với những
say mê và thói quen như những cách thức cầu nguyện. Điều này đúng không chỉ đối
với những người Công Giáo. Tôi thấy điều này qua những năm trong vai trò một
mục sư Tin Lành. Những phương pháp gây tiếng vang đến rồi tàn lụi, trung bình
năm sáu cách đối với một thập niên. Nhưng Kinh Mân Côi đã tồn tại qua nhiều thế
kỷ, bền vững trước cuộc tấn công trực diện trong những năm của thời kỳ
Cải Cách. Từ thế hệ này qua thế hệ khác, việc làm này đã được tất cả các vị
Giáo Hoàng chấp thuận, cũng như hầu hết các tâm hồn đạo đức cổ võ như Thánh
Tôma Aquinas, Thánh Anphongsô Liguori, Louis Pasteur, Fulton Sheen, và Thánh
Têrêsa Calcutta…
Tất
cả đã được bắt đầu ở đâu? Điều này hầu như không thể xác định. Tương truyền
rằng Đức Maria đã hiện ra với Thánh Đaminh Guzman, sáng lập Dòng Giảng Thuyết,
trao cho ngài Cỗ Tràng Hạt, và dạy ngài cầu nguyện. Nhưng thực ra, Thánh Đaminh
và các Tu Sỹ dòng ngài chỉ có công trong việc loan truyền lòng sùng kính
này ở thời Trung Cổ.
Lịch
sử, tuy nhiên, đã chứng minh rằng các tín hữu Công Giáo đã lần hạt ngay cả
trước khi Thánh Đaminh sinh ra. Kinh Mân Côi có thể đã được truyền lan từ từ
qua hàng thế kỷ. Những tín hữu Đông Phương đã có tập quán đếm lời kinh của họ
bằng những hạt hoặc những nút được buộc chặt. Các Tu Sỹ đã dùng những sợi giây
để đếm khi họ lập lại 150 Thánh Vịnh trong Thánh Kinh.
Những
Kitô hữu đơn sơ, số người không biết đọc, đã áp dụng việc thực hành này bằng
cách thay vào việc đọc 150 Thánh Vịnh bằng những lời cầu khác. Vì thế, việc
thực hành như vậy được gọi là nhà thánh vịnh nghèo nàn. Lời kinh thường xuyên
được chọn nhất là Kinh Kính Mừng, được đọc mười lăm lần, mỗi lần một chục.
Nhà
sử học Tin Lành là Anne Winston-Allen đã chỉ ra rằng Kinh Mân Côi là trung tâm
lòng sùng mộ vững vàng của Công Giáo, và là một sức mạnh quyền uy nhất “đối với
việc đổi mới tinh thần và cài cách trong buổi chiều tà của thời Đại Cải Cách”.
Tại
sao chúng ta biết rất ít về nguồn gốc của Kinh Mân Côi? Bởi vì nó được lớn lên
do lòng yêu mến.
Hãy
nghĩ tới một cuốn phim chiếu về những cảnh êm đềm của một cuộc tình được ghi
hình qua ống kính như thế nào, thì lịch sử cũng hành động tương tự. Nhân loại
ghi nhận những phút giây kinh hoàng với những chi tiết từng giây phút. Nhưng
tình yêu thường để lại cái vĩnh cửu của chính nó bằng yêu thương. Lịch sử Kitô
giáo hoạt động với tính xác thực, thí dụ, trong việc ghi nhận những cái chết và
cực hình của các vị tuẫn giáo. Nhưng lịch sử đã để lại cho chúng ta những trần thuật
vừa sơ lược vừa ít về tình yêu của những bà mẹ Công Giáo. Vâng. Có bao giờ
chúng ta nghi ngờ rằng, các bà mẹ, qua mỗi thế hệ, đã sinh ra nhiều Kitô hữu, cũng như các vị tử
đạo đã sinh ra nhiều tín hữu do dòng máu tử đạo của các ngài không?
Qua
những nguồn gốc của Kinh Mân Côi được bám rễ sâu trong thửa đất lịch sử, hoa
trái của nó là những chứng cớ trải qua hàng thế kỷ của Kitô Giáo, bao gồm chính
cả chúng ta.
Và
những điểm thực hành khác nhau của Kinh Mân Côi thì nhiều. Tại quê hương tôi,
phần đông tín hữu bắt đầu bằng dấu Thánh Giá, tiếp đến là Kinh Tin Kính, trong
khi cầm Thánh Giá ở đoạn cuối chuỗi hạt. Xong là đọc Kinh Lạy Cha, ba Kinh Kính
Mừng, Kinh Sáng Danh để dục lòng tin, cậy, mến. Và sau đó là lần hạt theo từng
mầu nhiệm. Một số người có thói quen lập lại lời nguyện Fatima - được coi là
được Đức Maria mặc khải cho ba trẻ Fatima, Bồ Đào Nha, năm 1917 - kết thúc mỗi
chục là Kinh Sáng Danh. Sau chục kinh cuối cùng, nhiều người còn có thói quen
đọc “Kinh Lạy Nữ Vương”, lời nguyện ở Loreto, hoặc những lời nguyện khác về Đức
Maria.
Suy Nguyện
Đó
là lý do tại sao kinh Mân Côi không quá khó khăn để lần ngón
tay trên những Hạt Mân Côi, lập lại những lời kinh. Sự đơn giản của nó đã trở
nên thông dụng cho phần lớn quần chúng.
Phần
lớn người ta chưa có thói quen suy nguyện. Các mầu nhiệm là những gì đã làm nên
Kinh Mân Côi. Khi chúng ta lập lại những lời cầu, chúng ta chăm chú lòng và trí
chúng ta vào những biến cố của đời sống Chúa Giêsu. Chúng ta cố gắng đặt mình
trong hoàn cảnh, và tưởng tượng những gì đã xẩy ra trước đó.
Đây
là điều cần thiết của Kinh Mân Côi. Vâng. Đây là điểm chúng ta sẽ phải suy ngắm
nhất, để tránh chia trí. Một khi thiếu cầm trí, chúng ta rất dễ bị phân tâm và
chi phối.
Đó
là lý do tại sao tôi luôn luôn khuyến khích dùng Thánh Kinh như nền tảng của
mọi suy niệm về Tràng Hạt Mân Côi. Sách Thánh rất tuyệt vời, và Chúa Thánh Thần
dùng Thánh Kinh để khai mở tâm trí chúng ta, dẫn tiến sâu hơn vào sự khôn ngoan
và hoán chuyển tâm hồn về với xám hối. Một vài cuốn sách nhỏ có thể cho chúng
ta một trang đơn sơ, ngắn gọn phù hợp để thấm nhập với từng Kinh Kính Mừng. Số
sách vở khác giới thiệu với chúng ta những chương khải triển đầy đủ ý nghĩa, để
chúng ta đọc nơi đầu một mầu nhiệm, hoặc khi chúng ta tiếp tục suy niệm.
Khi
đề cập tới Kinh Mân Côi trong Thánh Kinh, tôi nghĩ nhiều về một cuốn sách nhỏ,
đúng ra là một cuốn sách, hoặc ngay cả nhiều cuốn sách như trong một thư viện
đầy dẫy sách vở. Tôi có ý nói, người Công Giáo nên hòa nhập mình vào với Thánh
Kinh, nhờ đó ở mỗi một mầu nhiệm Mân Côi, sẽ gợi lại vô số những
kết hợp Thánh Kinh, từ Cựu Ước đến Tân Ước. Vì những mầu nhiệm - những biến cố
cuộc đời Chúa Giêsu - luôn làm sống lại một ý nghĩa nào đó. Thiên Chúa đã chuẩn
bị mỗi một biến cố ấy từ muôn thuở. Tôi đã cố gắng dẫn chứng những điểm nổi bật
đó qua cuốn sách này trong những mầu nhiệm sau cùng. Thí dụ, mầu nhiệm đội
triều thiên, đã được ngầm hiểu về Vườn Diệu Quang trong buổi bình minh, và mầu
nhiệm truyền tin cũng đã được nói tiên tri trong bối cảnh đó nữa. Ở chương 3,
chúng ta thấy rằng cuộc thăm viếng bà Isave của Đức Maria, chính là hoàn tất
của cuộc hành trình dài Hòm Bia Giao Ước trong Cựu Ước.
Nếu
chúng ta nhận chìm mình trong Thánh Kinh, chúng ta sẽ khơi lên nguồn tài liệu
phong phú. Cũng vậy, khi chúng ta suy ngắm về mầu nhiệm vinh quang thứ ba - Lễ
Hiển Linh đầu tiên - thì trước nhất, chúng ta sẽ nghĩ tới một quang cảnh sống
động trong Tông Đồ Công Vụ. Chúng ta cũng có thể nghĩ đến lễ Ngũ Tuần của dân
Do Thái xưa, đánh dấu việc ban Lề Luật. Chúng ta sẽ nhớ lại thời gian khi Chúa
Thánh Thần ngự xuống trên các trưởng lão trong sa mạc (xem Ds 11:24-29). Chúng
ta nhớ cả đến những hình lưỡi lửa, mà Êlia đã cầu xin xuống để đốt cháy lễ vật
của ông (1V 18:24-38). Rồi cái gì là hy tế Giao Ước Mới được đốt cháy bởi Lửa
Thánh Thần? Có phải là bạn và tôi không? Và khi các Tông Đồ nói tiếng lạ, chúng
ta tự nhiên nhớ lại câu truyện của tháp Baben (St 11), và lời trong Isaia
(28:11) khi Thiên Chúa một lần nữa làm hỗn loạn ngôn ngữ con người. Điều đó
mang ý nghĩa gì trong Ngày Lễ Ngũ Tuần, Ngài xứng đáng với sự phát triển ấy?
“Hãy
tìm và đọc”, lời trong Sách Giáo Lý, “và ngươi sẽ tìm gặp trong
chiêm ngắm” (số. 2654, ghi chú Guigo the Carthusian).
Toàn
bộ cuốn sách này chỉ bao gồm một phần rất nhỏ những dấu chỉ nơi chúng ta có thể
vươn tới trong suy niệm, khi chúng ta đã chuẩn bị đầy đủ từ những học hỏi bền
bỉ, chuyên cần, và cầu nguyện của Phúc Âm. Nói một cách đơn giản: chúng ta phải
đọc Thánh Kinh mỗi ngày; Chúng ta phải đón nhận Thánh Kinh thường xuyên hàng
ngày trong ý nghĩa của phụng vụ; Chúng ta đọc những suy ngắm, những lời giải
thích của các Giáo Phụ và các thánh; Và chúng ta phải cầu nguyện bằng Thánh
Kinh trong Chúa Thánh Thần.
Vào
nửa cuộc đời này, Kinh Mân Côi mỗi ngày của chúng ta là Kinh Mân Côi của Thánh
Kinh phát xuất từ trái tim chúng ta, đến Trái Tim Đức Maria và Chúa Cứu Thế, và
ngược trở lại. Như vậy, qua việc đọc Thánh Kinh, lần Hạt Mân Côi, chúng ta tìm
ra chỗ đứng trong lịch sử sống động của dân Thiên Chúa, xuất phát từ Adong đến
Isarael, qua Chúa Kitô tới Giáo Hội.
Vòng
Tròn Có Thể Vỡ?
Tình
yêu phát sinh tình yêu, đó là lịch sử của Kinh Mân Côi, và đó là bí mật của
Kinh Mân Côi.
Lần
Hạt Mân Côi! Đó là điều tôi khuyến khích người Công Giáo và tất cả mọi Kitô hữu
thiện tâm. Đọc Kinh Mân Côi, và nhận ra rằng, mỗi hạt kinh nối kết chúng ta
thành vĩnh viễn, gỡ bỏ khỏi chúng ta sự tạm thời, chuyển tiếp, những điều mà
hầu hết con người không mấy quan tâm đến.
Hãy
dành thời giờ để lần hạt với lòng yêu mến và sốt sắng. Nhưng cũng hãy lần hạt
khi bạn có thể tranh thủ, thí dụ ngồi chờ tại văn phòng bác sỹ, hoặc bị trễ
trên đường di chuyển. Thời gian vội vàng tuy không thích hợp đối với cầu
nguyện, nhưng bạn vẫn có thể cầu nguyện ngay cả những lúc vội vã. Những hạt Mân
Côi và lời kinh chắc chắn sẽ giúp bạn tránh được những tai nạn trên đường đi
của bạn!
Trước
kia tôi nhìn Chuỗi Mân Côi với thái độ dửng dưng. Tôi thấy nó như chiếc thòng
lọng bóp nghẹt lòng yêu mến của nhiều người Công Giáo. Khi tôi cầm cỗ tràng hạt
của bà tôi là Hahn, tôi đã không thể gạt bỏ được ý nghĩ đó, hoặc phải chiến đấu
một cách mãnh liệt.
Giờ
đây, khi nhìn Chuỗi Mân Côi của mình, tôi cũng thấy nó giống như những chuỗi
hạt khác, nhưng với một ý nghĩ hoàn toàn mới. Nó gợi cho tôi hình ảnh một triều
thiên của Nữ Vương, và vòng tay người Mẹ ôm choàng lấy tôi.