HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN C
Xh 32,7-11.13-14 ; 1 Tm 1,12-17 ;
Lc 15,1-32
I.HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 15,1-32
(1) Tất cả những người Thu thuế
và những người tội lỗi thường đến gần Đức Giê-su mà nghe Người. (2)
Còn những người thuộc phái Pha-ri-sêu và các kinh sư thì lẩm bẩm: “Ông
này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng”. (3) Đức Giê-su
mới kể cho họ dụ ngôn này: (4) Người nào trong các ông có một trăm con
chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài
đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất ? (5) Tìm được rồi,
người ấy mừng rỡ vác lên vai. (6) Về đến nhà, người ấy mời bạn bè,
hàng xóm lại và nói: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con
chiên của tôi, con chiên bị mất đó”. (7) Vậy, tôi nói cho các ông hay:
“Trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn
sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám
hối ăn năn”. (8) Hoặc người phụ nữ nào có mười đồng quan, mà chẳng
may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn, rồi quét nhà, moi móc tìm
cho kỳ được ? (9) Tìm được rồi, bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại và
nói: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh
mất”. (10) Cũng thế, tôi bảo cho các ông hay: “Giữa triều thần Thiên
Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối”. (11)
Rồi Đức Giê-su nói tiếp: “Một người kia có hai con trai. (12) Người con
thứ nói với cha rằng: “Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được
hưởng”. Và người cha đã chia của cải cho hai con. (13) Ít ngày sau,
người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống
phóng đãng, phung phí tài sản của mình. (14) Khi anh ta đã ăn tiêu hết
sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh
ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, (15) nên phải đi ở cho một người dân
trong vùng. Người này sai anh ta ra đồng chăn heo. (16) Anh ta ao ước lấy
đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. (17) Bấy giờ
anh ta hồi tâm và tự nhủ: “Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được
cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói ! (18) Thôi, ta đứng lên, đi
về cùng cha và thưa với Người: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời
và với cha, (19) chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một
người làm công cho cha vậy”. (20) Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng
cha. Anh ta còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng
thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. (21) Bấy giờ người con
nói rằng: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn
đáng gọi là con cha nữa”. (22) Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ
rằng: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay,
xỏ dép vào chân cậu, (23) rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để
chúng ta mở tiệc ăn mừng! (24) Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại,
đã mất mà nay lại tìm thấy”. Và họ bắt đầu ăn mừng. (25) Lúc ấy
người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà,
nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, (26) liền gọi một người đầy tớ ra
mà hỏi xem có chuyện gì. (27) Người ấy trả lời: “Em cậu đã về, và
cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì được lại cậu ấy mạnh khỏe”. (28)
Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn
nỉ. (29) Cậu trả lời cha: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ
cha, và chẳng khi nào trái lệnh. Thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được
một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. (30) Còn thằng con của cha
đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về,
thì cha lại giết bê béo ăn mừng!”. (31) Nhưng người cha nói với anh ta:
“Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là
của con. (32) Nhưng chúng ta phải ăn mừng và hoan hỷ, vì em con đây đã
chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”.
2. Ý CHÍNH:
Thấy Đức Giê-su gần gũi với
những người thu thuế và tội lỗi, nhóm Pha-ri-sêu và kinh sư lên tiếng
trách cứ Người. Bấy giờ Người đã dùng ba dụ ngôn diễn tả lòng thương
xót và niềm vui của Thiên Chúa đối với những tội nhân biết hối cải
là: “Con chiên bị lạc”, “Đồng bạc bị đánh mất” và “Người Cha nhân
hậu”. Hai dụ ngôn đầu nhấn mạnh đến thái độ của Thiên Chúa không bỏ
rơi nhưng luôn đi tìm kiếm kẻ có tội. Dụ ngôn thứ ba nhấn mạnh đến lòng
thương xót của Thiên Chúa qua thái độ sẵn sàng khoan dung tha thứ tội nhân đi
hoang và vui mừng đón nhận họ hồi tâm sám hối trở về.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-3: + Tất cả những người
thu thuế và những người tội lỗi:
Trong xã hội Do thái, những
người thu thuế bị coi như tội nhân công khai. Người thu thuế và gái
điếm là hai hạng người thường bị nhóm Pha-ri-sêu và kinh sư lên án (x. Lc
5,30; 7,34). Ở đây Lu-ca ghi nhận những người thu thuế và tội lỗi
thường đến nghe lời Đức Giê-su giảng. Điều này cho thấy Đức Giê-su không
khinh dể xa lánh tội nhân, nhưng sẵn sàng đón tiếp để cứu độ họ.
- C 4-7: + Người nào trong
các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con...: Hình ảnh
người mục tử với đàn chiên là một đề tài cổ điển của Cựu ước, nói
lên quan hệ giữa Thiên Chúa và dân Người (x. Lc 12,32). Con chiên tìm lại
được là biểu tượng về ơn cứu độ của Thiên Chúa (x. Mt 4,6-7). Lu-ca cho
thấy tình thương của Thiên Chúa là Đấng luôn đi tìm và đưa các tội nhân
trở về đàn chiên (x. Lc 15,4-7). + Để chín mươi chín con kia ngoài
đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất: Ở đây phải
hiểu ngầm là chín mươi chín con chiên trong đàn đã được mục tử nhốt
ở một nơi an tòan trong hoang địa, trước khi đi tìm con chiên lạc. Tuy
chỉ là một con chiên, nhưng đối với mục tử cũng là một số lớn, đến
nỗi ông quyết tâm đi tìm bằng được. Điều này cho thấy lòng nhân từ
của Thiên Chúa đối với kẻ có tội thật lớn lao.
- C 8-10: + Người phụ nữ
nào có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng...:
Đồng quan là một đơn vị tiền tệ của Hy-lạp. Đơn vị tiền tệ này tương
đương với quan tiền Rô-ma (x. Lc 7,41), là tiền công nhật của một nông
nhân làm việc đồng áng (x. Mt 20,2). + Lại không thắp đèn, rồi
quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được ?: Nhà của người dân
Pha-lét-tin làm bằng đất sét và có ít cửa nên bị tối. Do đó, dù
giữa ban ngày, để tìm kiếm một vật nhỏ như một quan tiền, người ta
cũng phải thắp đèn cầy lên. Trong dụ ngôn này, một phụ nữ vốn liếng
chỉ có mười quan tiền, nên phải vất vả tìm kiếm cho bằng được đồng
quan bị mất... Điều này ám chỉ tình thương của Thiên Chúa đối với
tội nhân. Người không muốn bất cứ ai bị hư mất, nhưng muốn họ ăn năn sám
hối và được sống. + Giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui
mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối: Thiên Chúa vui mừng
và chia sẻ niềm vui với cả triều thần thánh trên trời khi thấy một người
tội lỗi ăn năn hối cải trở về.
4. CÂU HỎI: 1) Những ai bị người
Pha-ri-sêu và kinh sư khinh dể, nhưng được Đức Giê-su sẵn sàng đón tiếp ?
2) Thánh kinh thường dùng hình ảnh nào để diễn tả tương quan giữa Đức
Chúa với Ít-ra-en là con dân của Người ? 3) Phải chăng người mục tử bỏ mặc
99 con chiên giữa hoang địa cho sói dữ cắn xé, để đi tìm một con chiên
bị lạc ? 4) Hai dụ ngôn nào diễn tả tình thương của Thiên Chúa luôn quan
tâm đi tìm các tội nhân, và dụ ngôn nào cho thấy tình thương của Người
sẵn sàng tha thứ và đón nhận tội nhân sám hối trở về ?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Trên trời
cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối,
hơn là chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn”
(Lc 15,7).
2. CÂU CHUYỆN:
1) NOI GƯƠNG CHÚA ĐỂ XÓT THƯƠNG NGƯỜI
TỘI LỖI:
Một lần kia, các tu sĩ trong miền dẫn
tới Đức Giám Mục An-mô-na một thiếu nữ mang bầu xin ngài ra hình phạt. Nhưng Đức
cha đã ban phép lành cho thai nhi, rồi ra lệnh ban cho cô sáu tấm vải bằng lanh
mịn. Những kẻ tố cáo lại nói:
- Tại sao Đức Cha làm như thế? Xin ra
cho nó một hình phạt.
Ngài ôn tồn bảo:
- Anh em thử nghĩ xem, cô ta đã đau
khổ muốn chết được; tôi phải làm gì hơn nữa?
Nói thế rồi ngài cho cô ta về. Từ đấy
không tu sĩ nào còn dám tố cáo ai nữa.
2) SỨC MẠNH HOÁN CẢI CỦA SỰ THA THỨ:
Ngày 13-5-1981, giữa lúc hàng chục
ngàn người chen chúc nhau tại quảng trường thánh Phê-rô để đón đức thánh cha
Gio-an Phao-lô II, thì một tiếng nổ chát chúa vang lên làm mọi người đứng tim.
Đức thánh cha đã bị ngã gục trên chiếc xe mui trần, máu vọt lên tung tóe. Lần
đầu tiên trong lịch sử nhân loại, một vị giáo hoàng bị mưu sát. A-li A-ga-ca,
hung thủ tội ác, đã bị bắt ngay tại chỗ. Sau đó hung thủ người Thổ Nhĩ Kỳ này đã
bị giam tại nhà tù Re-bi-bli-a ở Rô-ma. Cả thế giới đều kinh hoàng về tội ác tày
trời này. Năm 1984, thế giới còn kinh ngạc hơn nữa khi Đức thánh cha Gio-an
Phao-lô II, là người đã bị ám sát trước đó, đã đến thăm và nói chuyện với kẻ sát
hại mình tại nhà tù. Không ai biết hai bên nói gì với nhau, nhưng qua hệ thống
truyền thông, mọi người đều rất cảm động khi thấy Đức Thánh Cha bắt tay A-li
A-ga-ca, với nụ cười trìu mến. Phải chăng đây là hình ảnh sống động nhất về tình
yêu của Đức Giê-su khi Người niềm nở đón tiếp các tội nhân.
Ít lâu sau, vợ của kẻ sát nhân đã đến
Rô-ma để bày tỏ lòng biết ơn đối với Đức Thánh Cha, vì ngài đã sẵn sàng tha thứ
cho chồng của mình. Còn chính hung thủ A-li A-ga-ca sau khi mãn hạn tù, đã xin
được nhập vào quốc tịch Va-ti-can và được trở thành em nuôi của Đức Thánh Cha.
3) LOÀI NGƯỜI THÍCH KẾT ÁN HƠN LÀ
CẢM THÔNG VỚI TỘI NHÂN:
Bệnh HIV AIDS (hay SI-DA) ngày nay
đã trở thành một vấn đề lớn của nhân loại, một “căn bệnh của thế
kỷ” mà đến nay loài người vẫn chưa tìm ra phương thế chữa trị hữu
hiệu. Cách đây ít lâu, trên đài VTV3 có chiếu một bộ phim nhiều tập
khá hay, nhan đề là “Gió qua miền tối sáng”. Bộ phim đề cập đến số
phận của nhiều nhân vật bị lây nhiễm vi-rút liệt kháng (HIV-AIDS). Thái
độ của các bệnh nhân đầu tiên thường là bàng hoàng, không tin là mình
lại bị mắc chứng bệnh quái ác này. Rồi sau khi đã chấp nhận thực tế,
một mặt họ tìm xem ai đã lây bệnh cho mình, mặt khác họ vẫn cố che
giấu không để người chung quanh biết mình đã bị mắc bệnh. Rồi trong số
những người mắc bệnh, người thì chấp nhận hoàn cảnh để cố sống tốt
đẹp và tránh lây bệnh cho tha nhân. Nhưng cũng có kẻ hận đời và sống
buông thả, quan hệ tình dục bừa bãi, nhằm truyền bệnh cho nhiều người
khác cùng chết với mình cho hả dạ. Còn quần chúng nói chung, do chưa
hiểu về phương cách lây lan, nên khi vừa nghe người nào mắc phải thứ bệnh
quái ác này là bắt đầu bàn tán xầm xì to nhỏ và cảnh giác cao độ, thể
hiện qua thái độ xa lánh bệnh nhân... khiến người mắc bệnh cảm thấy cô
đơn và tủi hổ. Cuối cùng người bệnh đành phải dời chỗ đến nơi không ai
biết mình bị mắc chứng bệnh này.
Gần đây ở Phi-líp-pin cũng có
chiếu một bộ phim tài liệu về việc phòng chống HIV AIDS. Phóng viên
đã hỏi một thanh niên bị mắc bệnh AIDS thời kỳ chót: “Anh dự định thế
nào về tương lai của anh ?” Chàng thanh niên đã thành thật cho biết như
sau: “Tôi hy vọng sau khi tôi chết, hãng bảo hiểm nhân thọ sẽ trả cho tôi
một số tiền để nuôi chú chó cưng của tôi. Vì từ khi tôi công khai thừa
nhận chứng bệnh này, tôi đã bị mọi người khinh dể xa lánh, kể cả những
người thân trong gia đình ruột thịt của tôi. Chỉ có chú chó cưng là
không thay lòng đổi dạ. Nó vẫn tiếp tục vẫy đuôi mừng rỡ mỗi khi gặp mặt
tôi như trước”.
4) LÒNG THƯƠNG XÓT SẼ CHIẾN THẮNG SỰ
THÙ HẬN:
Cha PI-Ô là một vị linh mục nổi tiếng
thánh thiện. Ngày kia, ngài tới Ro-ton-do và tình cờ gặp Ce-sa-re Fes-ta, một kẻ
đứng đầu phái Tam Điểm tại đây. Khi gặp ngài, ông ta ngạc nhiên và nói:
- Ngài cũng ở đây với chúng tôi,
những người theo phái Tam Điểm hay sao?
Cha Pi-ô đáp lại:
- Phải, thế mục đích của các anh là
gì?
Ông ta trả lời:
- Chúng tôi chống lại Giáo hội.
Cha Pi-ô liền cầm lấy tay ông ta,
nhìn ông ta bằng cặp mắt trìu mến, rồi kể lại cho ông ta nghe dụ ngôn đứa con
hoang đàng, hay câu chuyện tấm lòng của một người cha.
Một giờ sau, ông ta đã quì gối xưng
tội. Rồi sau đó, ở mọi nơi và trong mọi lúc, ông ta sẵn sàng tuyên xưng lòng
khoan dung và thương xót bao la của Thiên Chúa.
Còn chúng ta hôm nay có sẵn sàng sám
hối ăn năn trở về cùng Thiên Chúa để được ơn tha thứ không? Vì tâm tình sám hối
ăn năn chính là phương thế để được Chúa thứ tha.
3. SUY NIỆM:
1) Về ba dụ ngôn diễn tả lòng Thương
Xót của Thiên Chúa:
Khi thấy Đức Giê-su tiếp đón và ngồi
ăn đồng bàn với những người thu thuế tội lỗi thì các người Pha-ri-sêu và các
kinh sư Do thái liền lẩm bẩm chê trách Người. Để trả lời, Đức Giê-su đã kể ra ba
dụ ngôn cho thấy lòng thương xót bao dung của Thiên Chúa đối với tội nhân diễn
tả ba khía cạnh của lòng thương xót mà các tín hữu cần thực hiện:
Một là dụ ngôn người mục tử tốt lành;
Hai là dụ ngôn người đàn bà lỡ đánh
mất một quan tiền;
Ba là dụ ngôn người cha giàu lòng bao
dung nhân hậu.
Qua đó Đức Giê-su trình bày Thiên
Chúa từ bi thương xót: Xót thương những kẻ đi vào con đường lầm lạc tội lỗi;
Người muốn giải cứu tội nhân ra khỏi vòng tội lỗi và vui mừng khi thấy họ quyết
tâm hồi tâm sám hối trở về.
2) Đặc tính của lòng thương xót của
Thiên Chúa:
a) Không bỏ rơi nhưng quyết tâm đi
tìm chiên lạc:
Đức Giê-su là mục tử tốt lành biết rõ
và gọi tên từng con chiên (x Ga 10,14), đến để cho chiên được sống và sống dồi
dào (x Ga 10,10). Con người thật đáng quí trước mặt Người. Người tìm kiếm con
người và không muốn một người nào bị hư mất. Như người mục tử tốt lành không
đành bỏ rơi một con chiên lạc, nhưng quyết tâm đi tìm cho tới khi tìm thấy (x Lc
15,4); Như người đàn bà có mười quan tiền bị rớt một đồng, đã không bỏ mặc,
nhưng đốt đèn, quét nhà quyết tìm lại bằng được (x Lc 15,8); Như người cha có
hai đứa con trai, đã không bỏ mặc đứa con thứ bất hiếu đi hoang, nhưng hằng ngày
mong chờ nó hồi tâm sám hối trở về (x Lc 15,20).
b) Vui mừng khi tìm lại những gì đã
hư mất:
Đức Giê-su là hiện thân lòng từ bi
thương xót của Thiên Chúa. Người không muốn tội nhân phải chết, nhưng muốn họ ăn
năn sám hối để được sống. Người vui mừng đón tiếp tội nhân trở về giống như mục
tử tốt lành đi tìm một con chiên lạc, khi tìm được rồi liền vui mừng vác nó trên
vai và đưa về đàn. Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại và
nói: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con
chiên bị mất đó” (Lc 15,5-6);
Thiên Chúa cũng giàu lòng từ bi nhân
hậu như người đàn bà kia có 10 đồng bạc đã bỏ công tìm kiếm một đồng bị mất. Khi
tìm thấy rồi liền nói với người xung quanh: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã
tìm được quan tiền tôi đã đánh mất” (Lc 15,9);
Thiên Chúa còn hành xử bao dung như
người cha nhân lành, hằng ngày chờ mong đứa con đi hoang trở về, và khi thấy
bóng nó từ đàng xa, đã chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ nó và hôn lấy hôn
để. Rồi không để nó nói hết câu thú tội, đã sẵn sàng tha thứ và trả lại mọi
quyền lợi mà nó đã mất khi bỏ nhà đi hoang: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc
cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê
đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng ! Vì con ta đây đã
chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy” (Lc 15,20-24).
3) Đối xử thế nào với
tội nhân noi gương Mục Tử nhân lành Giê-su?
a)
Cảm thông với tội nhân:
Trong cuộc sống, chúng ta thường có thái độ
giống như các biệt phái và Kinh sư khi thích xét đoán và kết án tha nhân.
Tin Mừng hôm nay cho thấy thái độ của Đức Giê-su đầy lòng thương xót: Người
cảm thông khi ngồi đồng bàn với các người thu thuế tội lỗi; Người
chọn một người thu thuế tên là Lê-vi vào số mười hai Tông đồ;
Người bênh vực và cứu người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại
tình khỏi bị ném đá chết… Sở dĩ Người ưu ái gần gũi tội nhân là vì muốn
chữa lành cho họ như Người đã nói:
“Người khỏe mạnh không cần đến thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Hãy về học cho
biết ý nghĩa của câu này: Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi không đến
để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi”
(Mt 9.13).
Chỉ có một tội không bao giờ
được tha là tội kiêu ngạo của ma quỷ khi “xúc phạm đến Chúa Thánh
Thần”. Đó là tội chết mất linh hồn mà các người Pha-ri-sêu và Kinh sư Do thái
đã lỗi phạm, khi cố chấp không tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai, mượn tay
Phi-la-tô kết án tử hình thập giá cho Người, và từ chối gia nhập Nước Trời do
Người thiết lập.
b) Đi tìm kiếm tội
nhân và vui mừng đón nhận họ trở về:
Thiên Chúa luôn
yêu thương mọi người là con cái của Ngài. Ngài đã sai Con Một đến trần gian là
Đức Giê-su để ban ơn cứu độ cho loài người. Khi đi giảng đạo, Đức Giê-su muốn
cho mọi người đều gia nhập Nước Trời để được cứu độ. Đặc biệt Người ưu ái
đối với các tội nhân: bênh vực người đàn bà ngoại tình khỏi bị kết án, tha
thứ cho người trôm lành thật lòng sám hối ăn năn, đi tìm các con chiên lạc và
vui mừng tiếp nhận họ, sẵn sàng kêu gọi người thu thuế Mát-thêu vào nhóm 12 tông
đồ, cho cô gái tội lỗi Ma-ri-a Ma-đa-le-na theo làm môn đệ của Người… Việc đi
tìm và đưa những tội nhân sám hối trở về với Chúa cũng chính là sứ mạng của
mỗi người tín hữu chúng ta hôm nay.
c) Quảng đại tha thứ những xúc phạm
của kẻ khác đối với chúng ta:
- Nếu Thiên Chúa đã tỏ lòng từ
bi tha thứ tội lỗi chúng ta, thì Người muốn chúng ta cũng phải sẵn
sàng tha thứ các xúc phạm của tha nhân đối với chúng ta, như người cha
trong dụ ngôn đã yêu cầu người anh cả tiếp nhận đứa em đi hoang trở về. Trong
thực tế, người ta chỉ dễ tha thứ lỗi lầm của kẻ khác khi ý thức được
tình trạng tội lỗi của mình. Có nhận mình là tội nhân, chúng ta mới
cảm thông và dễ tha thứ cho kẻ khác.
- Đừng đòi kẻ có tội phải bị
trừng phạt mới vừa lòng: Mục sư Mác-tin Lu-thơ Kinh (Martin Luther
King) đã nói như sau: “Nếu cứ áp dụng luật “mắt đền mắt” thì chắc mọi
người đều đã trở thành những kẻ mù lòa từ lâu rồi !”. Một phóng viên
đã hỏi Tổng thống LANH-CÔN (A Lincoln) là ông sẽ làm gì đối với dân
Miền Nam sau cuộc nội chiến Hoa Kỳ? Ông liền trả lời: “Tôi sẽ đối xử
với họ như họ chưa bao giờ bỏ nhà đi hoang”.
- Đây cũng chính là cách đối xử
của Đức Giê-su đối với các tội nhân. Người sẵn sàng tha thứ vô điều kiện,
“phục hồi trọn vẹn” cho ông Phê-rô, như thể ông chưa bao giờ phạm
tội chối Thầy. Đây cũng chính là cách chúng ta phải cư xử với kẻ xúc
phạm đến chúng ta: Phải sẵn sàng tha thứ với một tình thương bao dung giống
như Thiên Chúa đã bao dung với chúng ta, như lời cầu trong kinh Lạy Cha: “Và
tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (Mt 6,12). Vì nếu
chúng ta đối xử với tha nhân thế nào, thì Thiên Chúa công minh cũng sẽ xử với ta
như thế: “Anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong cho anh em đấu
ấy” (Mt 7,2).
-
Thánh Phao-lô
dạy các tín hữu chúng
ta sống đức mến như sau
: “Đức mến thì
nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc; không làm
điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù; không
mùng khi thấy sự gian ác,nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất
cả , tin tưởng tất cả; hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr 13, 4-7)
4.
THẢO LUẬN:
Giả như bạn là người anh cả
trong dụ ngôn hôm nay thì bạn sẽ làm gì: vào nhà cha để cùng tham dự
bữa tiệc vui đón đứa em đi hoang trở về, hay đứng bên ngoài kêu trách lòng
nhân hậu của Cha, như các người Pha-ri-sêu và kinh sư xưa đã làm?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHA. Chúng con thường
hay cư xử như người con thứ trong bài dụ ngôn khi muốn tự do bay nhảy ngoài
vòng tay che chở của Cha. Nhưng chính sự tự do ấy đã biến chúng con trở
thành nô lệ cho ba thù là ma quỷ, thế gian và xác thịt mình. Những hạnh phúc
do thế gian ban tặng cuối cùng cũng chỉ là thứ hạnh phúc bọt bèo chóng
qua. Xin dẫn dắt chúng con mau quay về với Cha, giúp chúng con điều
chỉnh những sai lỗi. Xin giúp chúng con sớm trỗi dậy, vì tin rằng tình
thương của cha còn lớn hơn muôn ngàn lần những tội lỗi của chúng con. Ước
gì vấp ngã sẽ làm chúng con trưởng thành hơn, thấy được sự mỏng dòn
yếu đuối của mình và cảm nghiệm được lòng Cha bao dung nhân hậu. Ước
gì sau mỗi lần được Cha tha thứ, chúng con cũng biết đối xử từ bi thương
xót đối với những kẻ đã xúc phạm đến chúng con.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN
CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH - HHTM