CHÚA NHẬT XVII –C THƯỜNG NIÊN
St 18:20-32; Cl 2:12-14; Lc 11:1-13
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD
Image: God’s Promises to Abraham
by James Tissot
Bài đọc 1 sách Sáng Thế (St
18:20-32) nói về việc Thiên Chúa sẽ hủy giệt hai thị trấn Sodom và Gomorrah vì
dân chúng ở đó tội lỗi quá nhiều. Nhưng Abraham đã cầu khẩn Chúa tha thứ vì
trong đó còn có những người công chính. Chúng ta thử coi cách Abraham cầu xin
Chúa ra sao và Chúa Giesu dạy chúng ta phải cầu nguyện thế nào như Luca diễn tả
trong bài Tin Mừng hôm nay (Lc 11:1-13).
CUỘC ĐIỀU ĐÌNH
CỦA ABRAHAM
Khi Abraham nghe biết Thiên Chúa
sẽ sử phạt hai thị trấn Sodom và Gomorrah trong đó có ông Lot là cháu ông đang
cư ngụ, ông bèn đặt vấn đề để thương lượng với Chúa: Vậy Chúa sẽ hủy giệt cả
những kẻ vô tội cùng với những kẻ tội lỗi sao? (18:23). Abraham van nài tình
thương của Chúa xin ban cho một ân huệ là đừng hủy giệt hai thị trấn này!
Thiên Chúa ra điều kiện nếu trong
tỉnh có được 50 người công chính thì Chúa tha cho cả tỉnh. Abraham đã từ từ giảm
số người công chính xuống còn 10 người. Sự khác biệt này vẫn còn phù hợp với
điều kiện Thiên Chúa đã đưa ra để tha không hủy giệt cả tỉnh (18:28-32). Sau khi
Abraham nắm được điều kiện 50 người công chính thì Thiên Chúa đã phán: “Vì
chúng mà ta sẽ tha cho tất cả” (18:26) thay vì “… không thiêu hủy cả tỉnh”.
Câu chuyện Abraham đã cứu được
tỉnh Sodom thực sự không phải là ván bài con số nhưng là ý nghĩa của ơn cứu độ
cho những người công chính trong một cộng đồng tha hóa đầy dẫy tội lỗi. Abraham
đã can thiệp rất hăng say là vì niềm tin: Yêu Chúa nồng nhiệt thì nhất định
không thể thất bại, ngay cả trong những môi trường xã hội tội lỗi, vô luân, đồi
bại.
NHỮNG YẾU TỐ ĐỂ
ĐIỀU ĐÌNH
Làm sao để cuộc điều đình được
thành công? Trước tiên, đòi hỏi phải rõ ràng và dễ hiểu. Thứ đến
phải hữu lý và trình bày một cách thuyết phục. Thứ ba, người đòi
hỏi phải cương quyết và bền chí. Tóm lại phải rõ ràng, hữu lý
và kiên quyết, nhất định không bỏ cuộc.
Abraham đã có đầy đủ cả 3 yếu tố
căn bản đó khi cầu xin Chúa. Abraham làm nổi bật niềm tin và những đức tính tốt
của ông Lot, không phải ông Lot có họ hàng với ông. Dù không nói rõ đòi hỏi của
mình ra, Abraham đã trình bày cho Chúa ước mong của mình rất khôn khéo để đánh
động lòng thương xót của Chúa là: Xin hãy cứu những kẻ thờ phượng Chúa và ăn
ngay ở lành! Xin hãy tin những người tin tưởng nơi Chúa; xin hãy thương xót
những người biết xót thương tha nhân. Abraham kiên trì cầu xin cho đến khi Chúa
và ông đồng ý với con số 10 người công chính (18:26-32).
Con số 10 không nhất thiết phải là
số người trong gia đình ông Lot mà là số người tối thiểu có niềm tin cần thiết
để tạo thành một cộng đồng tín hữu, cũng là lý do hiện hữu của một cộng đồng cầu
nguyện của người Do Thái theo truyền thống. Do Thái Giáo đòi hỏi tối thiểu phải
có 10 người đàn ông để tạo thành một tổ chức tôn giáo. Con số 10 cũng là số tối
thiểu cấn thiết để cầu nguyện gọi là cầu nguyện chung, và số tối thiểu phải có
để thi hành việc tế tự trong hội đường.
Khi cầu nguyện, chúng ta nên bắt
chước Abraham. Cầu nguyện với một ước muốn rõ ràng, theo ý hướng của Chúa, và
kiên trì, ngay cả khi chúng ta xin một điều rất nhỏ, làm sao để lời cầu của
chúng ta được rõ ràng, hữu lý, đồng thời phải kiên trì cầu khẩn! Làm sao lời cầu
của chúng ta phản ảnh được những đặc tính lạ thường giống như của Abraham!
TRỌNG TÂM CỦA CẦU
NGUYỆN TRONG ĐỜI SỐNG KITO GIÁO
Trong suốt Tin Mừng của mình, Luca
đã trình bày cách Chúa Giesu cầu nguyện như là khuôn mẫu cho chúng ta noi theo.
Khi cầu nguyện, chúa Giesu nói chuyện với Thiên Chúa Cha, đối thoại giữa Thiên
Chúa và gia đình nhân loại với tâm hồn hoàn toàn cởi mở. Cầu nguyện phải liên
tục, vì cầu nguyện là dấu chỉ của niềm tin của chúng ta đối với Thiên Chúa. Cầu
nguyện không phải là gây áp lực Thiên Chúa để đạt được ước muốn theo cách thức
của mình. Cầu nguyện thực sự và đúng nghĩa là mở rộng tâm hồn mình để cho Chúa
Thánh Thần hoạt động, dẫn đưa chúng ta vào đường hướng của Chúa, và làm cho
chúng ta trở thành môn đệ Chúa, biết vâng lời chúa Giesu và Chúa Cha là đấng đã
sai Người xuống thế. Cầu nguyện để trở nên một, thống nhất, nhờ đó chúng ta bước
theo Chúa Giesu sống đời sống Kito giáo.
BA GIAI ĐOẠN CỦA
CẦU NGUYỆN
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Luca
trình bày 3 giai đoạn cầu nguyện (11:1-13). Thứ nhất (11:1-4) Chúa Giesu dạy
cho các môn đệ và cả cộng đồng Kito Giáo “kinh Lạy Cha”;
thứ hai (11:5-8) phải bền bỉ; thứ ba (11:9-13) hiệu quả của
cầu nguyện.
Trong Mathieu, kinh “Lạy Cha”
(6:9-15) nằm trong diễn trình của “bài giảng trên núi”. Luca kể lại khi thấy
Chúa Giesu cầu nguyện thì các môn đệ xin Người dạy các ông cầu nguyện như Gioan
đã dạy các đệ tử (11:1-4). Chúa Giesu đã đáp ứng và dạy các ông kinh “Lạy Cha”.
Chúa trình bày cho các ông dưới hình thức một cộng đồng Kito hữu cầu nguyện
chung và nhấn mạnh đến tình cha con mà Thiên Chúa là Cha và là đấng mà người môn
đệ Kito Giáo cần phải có như của ăn hàng ngày (11:3), lòng tha thứ (11:4), và
được cứu thoát trong giờ phán xét sau cùng (11:4).
CẦU NGUYỆN CỦA
CỘNG ĐỒNG
Chúa Giesu dạy 12 môn đệ kinh “LẠY
CHA” với tư cách là tông đồ, đồng thời cũng là nhũng người đồng trách nhiệm đối
với cộng đồng. Đây là kinh cầu nguyện của các tông đồ, vì được dùng ở số nhiều
và không để ý đến ý thức cá nhân, sự đồng trách nhiệm và tình liên đới.
Khi chúng ta cầu nguyện cho “Nước
Chúa Trị Đến”, chúng ta tỏ lòng ước muốn sâu xa được nhìn thấy ngày Chúa
khải hoàn, nước Chúa thống trị vinh quang thực sự, không còn là một hy vọng mơ
hồ mà là một thực tế hiển nhiên ở đời. Linh hồn chúng tôi không bao giờ thõa mãn
cho đến khi Thiên Chúa được vinh danh và tung hô trước muôn loài. Phải chăng
cũng là lời ước nguyện xuất phát tự đáy lòng, khi nào thì thế giới ma quỉ, tội
ác và tử thần kết thúc?
Khi chúng ta cầu xin có đủ cơm ăn,
là chúng ta cầu xin một điều gì hơn cả cơm gạo và lương thực. Chúng ta cầu xin
đấng Sáng Tạo sự sống những nhu cầu đời sống: “Lạy Chúa, xin ban cho chúng
con những thứ cấn thiết để chúng con vui hưởng tặng phẩm Chúa ban là sự sống –cơm
gạo hôm nay và ngày mai để chúng con sống là một cộng đồng”
Chúng ta cầu xin: “Xin Chúa tha
tội cho chúng con cũng như chúng con tha nợ cho những kẻ nợ chúng con”. Câu
này có thể phản ảnh nỗi ưu tư của Luca vì của cải sẽ cản trở tình thân hữu trong
cộng đồng. Thỉnh nguyện sau cùng rất có thể là ngày cánh chung: Xin đừng phán
xét chúng tôi, nghĩa là một thử thách lớn lao cuối cùng và một hấp hối của ác
quỉ trước ngày tận thế.
Kinh “Lạy Cha” trở thành kinh của
người nghèo, của những người đau khổ cơ cực. Đây
có thể là kinh đầu tiên mà chúng
ta chưa bao giờ học, và cũng là kinh cuối cùng mà chúng ta chưa bao giờ đọc
trước khi nhắm mắt trong cuộc đời .
TẶNG PHẨM BẢO ĐẢM
CỦA CHÚA
Dụ ngôn người bạn gõ cửa vào nửa
đêm để mượn bánh trong Tân Ước cũng đưa ra một sứ điệp như một lời cầu nguyện.
Điểm chính của câu chuyện là nếu những ông bạn của chúng ta trả lời là “tôi đang
ngủ, anh đừng quấy rầy tôi, …” thì Thiên Chúa vĩ đại hơn chúng ta nhiều sẽ ban
cho chúng ta nước trời không (Lc 12:32). Phần kết luận “cứ xin thì sẽ được” (Lc
11:9-13) đưa ra là để trả lời cho phần trên, người bạn quấy rầy giữa đêm. Tương
tự như vậy, câu chuyện chuyển từ người bạn qua cha mẹ. Nếu cha mẹ cho con quà
tặng tốt thì Thiên Chúa đấng tốt lành hơn sẽ cho nhiều đến đâu. Lời cầu nguyện
cứ tiếp tục xin, gõ cửa nhưng sự bền bỉ này vẫn ở trong giới hạn của tình liên
đới giữa con cái và cha mẹ mà có kết quả. Lời cầu nguyện thực sự sẽ mở lòng
chúng ta ra để cho Chúa Thánh Thần họat động. Người sẽ mang chúng ta vào đường
hướng của Chúa và mong ước của Ngưới, làm cho chúng ta thành những môn đệ thực
sự, biết vâng lời Chúa Giesu và Đức Chúa Cha.
Để kết luận bài suy niệm này, xin
trích câu #239 sách Giáo Lý Công Giáo nói về ý tưởng cầu nguyện Thiên Chúa là
CHA mà Luca đã nói trong bài Phúc Âm hôm nay:
Khi gọi Thiên Chúa là Cha, ngôn
ngữ của đức tin đã chủ yếu nêu rõ hai phương diện: Ngài là nguồn gốc trên hết
của vạn vật và có ưu quyền siêu việt –đồng thời Ngài là đấng nhân hậu và thương
yêu lo lắng cho tất cả các con cái mình. Sự dịu hiền phụ mẫu của Thiên Chúa cũng
có thể được biểu lộ bằng hình ảnh của người mẹ (Is 66:13; Tv 131:2) và tình mẫu
tử nói rõ hơn về tính nội tại của Thiên Chúa, về tình thân mật giữa Thiên Chúa
và tạo vật của Ngài. Như vậy ngôn ngữ của đức tin đã lấy trong kinh nghiệm của
con người về cha mẹ mình, vì một cách nào đó, cha mẹ là những vị đại diện đầu
tiên của Thiên Chúa đối với con người. Nhưng kinh nghiệm cho thấy cha mẹ là
những người có thể sai lầm và làm méo mó hình ảnh của tình mẫu tử. Bởi vậy nên
nhắc lại rằng Thiên Chúa vượt trên sự phân biệt nam nữ của con người. Ngài không
phải người nam cũng chẳng phải người nữ, Ngài là Thiên Chúa. Ngài cũng siêu việt
trên tình phụ tử và tình mẫu tử của con người (Tv 27:10), mặc dù Ngài là nguồn
gốc và thước đo của hai tình đó (Ep 3:14; Is49:15): không ai là cha như Thiên
Chúa.
Fleming Island, Florida
July, 2019