HÔM NAY 01/3 LÀ NGÀY MẤT CỦA BS. ALEXANDRE YERSIN NGƯỜI PHÁP
GỐC THUỴ SĨ CÓ CÔNG LAO TO LỚN ĐỐI VỚI VIỆT NAM. XIN ĐƯỢC KÍNH CẨN NGHIÊNG MÌNH
NGƯỠNG MỘ VÀ BIẾT ƠN ÔNG!️
Hiện nay cà chua, cà rốt, các loài Hoa phương Tây ở Đà Lạt...
;cà phê, Điều, Tiêu.... mà Việt Nam xuất khẩu mang về hàng tỉ USD có từ đâu?
Chắc ít ai nghĩ đó là do công lao của bác sĩ Yersin! Dịch hạch là căn bệnh khủng
khiếp nhất trong lịch sử loài người, có thời điểm làm giảm 2/3 dân số châu Âu và
1/3 dân số Trung Quốc. Chính bác sĩ Yersin là người đầu tiên tìm ra vi khuẩn này
và các nhà khoa học về sau khống chế nó hoàn toàn. Yersin cũng là một câu chuyện
thú vị khi cả cuộc đời trưởng thành của ông, đều gắn bó với 2 chữ Việt Nam.
Tốt nghiệp tiến sĩ y khoa với đề tài bệnh Lao, nhưng Yersin
và thầy hướng dẫn của mình là giáo sư Roux nổi danh với phát minh ra vắc xin
bạch hầu. Thành tựu của ông khiến thiên tài Louis Pasteur chú ý và được nhận vào
làm ở viện Pasteur Paris danh giá. Nhưng máu thám hiểm trong người khiến ông
nằng nặc xin nghỉ việc để đi làm thuỷ thủ tàu viễn dương "dù chưa có kinh nghiệm
đi biển bao giờ". Ông nói "đời mà không đi, thì còn gì là đời".
Các lần đi thám hiểm và quay lại Pháp, ông đều được Louis
Pasteur "mời ăn tối và nghe báo cáo", "thấy thú vị trước các thông tin mới mẻ do
Yersin kể". Pasteur yêu cầu ông hãy làm gì thì làm cho trọn vẹn để "vang danh
thiên hạ, giúp nhân loại". Vâng lời thầy, Yersin xách đồ đạc lên tàu vượt ngàn
hải lý, mặc cho gió bão khôn lường. Hình ảnh học trò khăn gói xuống thuyền dọc
ngang quả đất sau khi học xong là hình ảnh vô cùng đẹp của những người có LÝ
TƯỞNG SỐNG.
Sang Việt Nam, ông làm bác sĩ trên tàu giữa Sài Gòn, Manila,
Hải Phòng rồi sau đó định cư ở Nha Trang, sau một lần tàu cập bến và ông phải
lòng với cảnh sắc nơi đây. Đầu thế kỷ 20, ông tham gia hội đồng sáng lập và là
hiệu trưởng đầu tiên của ĐH Y Khoa Đông Dương (nay là Y Hà Nội), xây dựng toàn
bộ giáo trình sơ khởi và nhận thức y đức cho các thế hệ bác sĩ, quy hoạch các
bệnh viện ở các tỉnh thành khắp Việt Nam theo khoảng cách địa lý để "ai bị bệnh
cũng có chỗ gần nhất mà đến trị kịp thời". Nhưng Hà Nội cũng chỉ có thể giữ chân
ông được 2 năm. Ông quay trở lại Nha Trang, thực hiện chuỗi những ngày làm khoa
học và thám hiểm khắp núi rừng Đông Dương. Ông là người đã tìm ra cao nguyên
Lang Biang và quy hoạch Tp Đà Lạt, xây dựng viện Pasteur Đà Lạt và phát triển
mạnh hơn cho viện Pasteur Sài Gòn, Hà Nội. Trại ngựa nuôi lấy huyết thanh sản
xuất vắc xin của ông nằm ở suối Dầu là trại ngựa thuốc lớn nhất châu Á khi đó.
Ông còn cho trồng cây ký ninh để trị bệnh sốt rét. Ông từng mong muốn Diên Khánh
là nơi sản xuất thuốc men cho cả Đông Dương.
Ông cũng là người mang cây cao su, ca cao, cà phê (thậm chí
ông cho thử nghiệm cây điều từ Brazil và tiêu đen từ Ấn Độ ở nông trại của mình),
đến bây giờ chúng ta đã có hàng tỷ đô la xuất khẩu. Ông thử nghiệm nhiều giống
cây ôn đới như cà rốt súp lơ su su lay-ơn cẩm tú cầu xà lách xông cà chua....(hầu
như tất cả các loại rau củ mang tiếng Pháp đều là do ông và bạn bè đồng sự ông
mang qua). Ông còn nuôi cừu trồng nho ở Phan Rang, nuôi đà điểu ở Ninh Hoà, thử
nghiệm trồng quy mô lớn cây cà phê ở Lâm Đồng, Đăk Lăk và Pleiku. Ông cũng là 1
triệu phú nhờ trồng cao su xuất bán cho hãng lốp xe Michelin và là cổ đông chính
của ngân hàng HSBC. Ông cho rằng "tôi phải kiếm tiền kiểu khác chứ không tài nào
cầm được tiền của các bệnh nhân". Toàn bộ tiền lãi của ông đến nay vẫn còn và
vẫn bí mật chuyển đều đặn về 1 quỹ từ thiện và quỹ nghiên cứu khoa học.
Với tầm nhìn vĩ đại, bác sĩ Yersin không chỉ làm khoa học mà
còn giỏi nhiều thứ. Ngoài việc mang sang cho chúng ta bao nhiêu giống cây trồng
vật nuôi mới lạ, khám phá và xây dựng Sapa Đà Lạt Bà Nà...thành những nơi du
lịch nghỉ dưỡng, ông còn tham gia quy hoạch đô thị khu trung tâm Sài Gòn Hà Nội
Nha Trang Đà Nẵng Hải Phòng, ranh giới các tỉnh....mà chúng ta ngày nay hay có
cụm từ "ngày xưa người Pháp đã quy hoạch chỗ này là, chỗ kia là..". Ông đã giúp
người Việt chúng ta có được nền tảng kinh tế ban đầu từ một nước thuần nông lạc
hậu, những công trình về hạ tầng, giáo dục, y tế. Do chính quyền Pháp khi đó rất
tín cẩn ông, vì ông đi nhiều khám phá nhiều. Hầu như mọi ngóc ngách ở Lào, Việt
Nam và Campuchia đều có dấu chân ông. Núi cao vực sâu, thú dữ, bệnh tật...không
hề làm ông nản bước. Ông luôn yêu cầu Pháp phải xây dựng nhiều trường học ở các
tỉnh của Việt Nam và ý kiến cho Pháp đầu tư tiền để xây đường sắt Bắc Nam từ ga
Hà Nội đến ga Sài Gòn, hiện chúng ta vẫn còn đang khai thác. Con đường quốc lộ
1A thời đó là con đường đất nhỏ xíu (gọi là con đường cái quan) bề rộng chỉ có
2-3 mét từ thời chúa Nguyễn đã được ông "bày vẽ" cho kè đá, rải nhựa, mở rộng
nâng cấp để xe ô tô có thể chạy được. Ông nói phải ưu tiên làm con đường to nhất,
tốt nhất gọi là quốc lộ, chạy ngang qua hết các tỉnh ven biển để người dân tỉnh
nào cũng có thể hưởng lợi từ giao thông. Đường sắt Phan Rang đi Đà Lạt cũng là
ông tư vấn cho toàn quyền Doumer làm. Các trạm khí tượng từ Sapa đến Mẫu Sơn đến
Bạch Mã, các ngọn hải đăng ngoài biển mà chúng ta thường nói "do Pháp xây" là do
ông chọn vị trí. Những gì ông có thể nghĩ ra, ông đã làm tất cả cho người Việt.
Ông sống 1 mình, giản dị ở Nha Trang đến cuối đời, 1 cuộc đầy
ắp những chuyến đi thám hiểm và thành tựu. Nha Trang cũng là nơi tiếp cận điện
ảnh đầu tiên của nước ta do ông mang về chiếu. Có lần khi trẻ con vào nhà ông
xem phim và nghịch phá những chậu hoa quý, gia nhân toan ra mắng nhưng ông bảo "thôi
đừng la trẻ nhỏ, nghe lớn tiếng chúng sẽ sợ". 1 lần ông lái xe hơi trên đường, 1
người dân bất cẩn lao vào xe ông và bị tai nạn. Dù lỗi của người đi bộ rành rành
nhưng ông chạy xuống giúp họ băng bó, xin họ tha thứ và kiên quyết trả lại xe
cho chính phủ, đi xe đạp, vì theo ông "dân chúng xứ này chưa quen luật lệ nên đi
lại vô tư, mình đi xe đạp có va chạm thì cũng không gây thương vong cho họ". Có
lần ông lên Tây Nguyên tìm thuốc, người dân tộc đã bắt ông, định hành quyết.
Nhưng họ nhìn vào mắt ông, thấy một sự chân thành và thiện lương kỳ lạ, họ lại
thả ông ra. Ông sau đó chữa trị bệnh cho cả buôn làng và gửi thuốc men lên cho
họ đều đặn. Ngôi nhà của ông là trại tế bần khổng lồ cho người sa cơ lỡ vận, ốm
đau, bệnh tật, đói kém....của khắp vùng, mở cửa suốt ngày suốt đêm. Ông không có
vợ con vì dâng hiến phụng sự cả đời cho khoa học, nhưng người ta kính yêu ông
như cha mẹ ruột.
Trong khi nhiều trí thức Việt Nam đi Pháp để hưởng thụ sự văn
minh có sẵn của xứ người, ông như cá bơi ngược dòng. Dù quê hương ông là đất
nước Thuỵ Sĩ giàu có và xinh đẹp, dù tốt nghiệp trường Y Paris và là một trong
những nhà khoa học nổi tiếng nhất thế giới khi ấy, ông vẫn xuống tàu đi đến một
miền đất nghèo xa lạ. Ông nói "tôi mãi mãi là một công dân Pháp, nhưng tôi yêu
Việt Nam và sẽ phụng sự tính mạng và cuộc đời tôi cho họ".
Đám tang ông là đám tang lớn nhất Việt Nam lúc đó. Giây phút
cuối đời, ông nhờ người quản gia dìu ông ra phía cửa sổ, nhìn về phía biển, nơi
ghi dấu 1 thời dọc ngang tuổi trẻ, rồi trút hơi thở cuối cùng. Nghe tin ông mất,
người dân Nha Trang bỏ hết công ăn việc làm để lo hậu sự. Tàu bè ngoài biển vội
vã cập bến xóm Cồn, ngưng mọi hoạt động đánh bắt trong nhiều ngày. Những phụ nữ
tiểu thương bán cá đã bỏ hết cá mắm tiền bạc danh lợi mỗi ngày, bỏ cái nón lá
quen thuộc để đeo khăn tang trắng xoá trên đầu, xuống đường đưa tiễn, khóc hết
nước mắt. Người dân Hà Nội, Sài Gòn, Đà Lạt, các thành phố lớn khác châu Á yêu
quý ông, nhất là người Hongkong, nơi ông đã thành công trong việc giúp hàng
triệu người dân ở đây thoát khỏi nỗi kinh hoàng do dịch cúm. Úc từng mời ông
sang thành lập viện Pasteur cho họ nhưng ông đã từ chối. Hongkong thì tìm mọi
cách giữ ông lại, nhưng ông vẫn khăng khăng quay về dải đất hình chữ S mà ông
trót yêu thương. Năm 1943, khi ông mất, trí thức toàn thế giới, đặc biệt giới Y
khoa và giới thám hiểm đã bày tỏ sự thương tiếc vô hạn. Di chúc ông ghi giản dị
"Tôi muốn được an táng ở Suối Dầu, mộ thật nhỏ và nằm úp xuống, đầu quay về phía
biển. Ông Bùi Quang Phương (cộng sự lâu năm) đừng cho ai đem thi hài tôi đi nước
khác. Mọi tài sản xin tặng hết cho Viện Pasteur và những người cộng sự lâu năm
đã làm việc với tôi".
Nếu bạn đã từng 1 lần được tiêm chủng, chích ngừa hay thậm
chí ăn cà rốt, uống cà phê, đắp mặt cà chua (trước đó thì người Việt chúng ta
chỉ có cà pháo....để ăn với mắm tôm) thì hãy biết ơn BS Yersin. Công lao của ông
với dân tộc mình, với đất nước mình là không bao giờ kể hết. Các bạn có thể đọc
thêm tư liệu về bác sĩ Yersin để thấy những tranh cãi lặt vặt, những suy nghĩ
tầm thường đã phí thời gian cuộc đời mình. Sách giáo khoa nên bổ sung nhiều bài
học về ông để các thế hệ mãi mãi biết ơn. Lòng biết ơn là thước đo của sự văn
minh, ở mỗi cá nhân và cả dân tộc.
Và mỗi người, nếu đọc được những dòng chữ trên thì hãy học
tập ông ở tinh thần PHỤNG SỰ, CỐNG HIẾN. Không nhỏ hẹp, vun vén cá nhân, cái xe
- cái nhà - miếng đất - bằng cấp - chức vụ - công danh, tiền tài mang về cho vợ
cho con tầm thường nữa. Mạnh dạn vẫy vùng biển rộng trời cao, dấn thân, xả thân
vì MỘT LÝ TƯỞNG SỐNG của riêng mình. Bỏ quê hương đi đến chỗ phồn vinh thì dễ,
quay về làm cho nó giàu sang văn minh thì mới khó. Mà khó cỡ nào, mình quyết tâm
là làm được hết. Cuối đời, mình tự hào vì đã góp phần vô việc MAKE A BETTER
VIETNAM.
Phàm làm người, ai càng sớm tìm được lý tưởng sống, thì càng
có một cuộc đời ý nghĩa, trọn vẹn, không hối tiếc.
Xuân Kỷ Hợi,2019.
Tony
Nguồn:
http://nhinrabonphuong.blogspot.com/2019/06/mot-nguoi-vi-ai-ma-chung-ta-chiu-on-tony.html