CHÚA NHẬT
25B THƯỜNG NIÊN
Kn 2:12,
17-20; Gc 3:16-4:3; Mc 9:30-37
Bác sĩ
Nguyễn Tiến Cảnh, MD
Sermon on the mount by
Carl Bloch
Hình ảnh người công chính
trong sách khôn ngoan nơi bài đọc 1 hôm nay dựa trên bài ca người đầy tớ số 4
(Is 52:13-53:12), sách Isaiah câu 42:1 và thánh vịnh câu 12:8. Dù sách Khôn
Ngoan không được các thầy cả / rabbis ở Palestine công nhận là Kinh Thánh, nó
cũng đã ảnh hưởng đến các tác giả của Tân Ước, đặc biệt hình ảnh đức Giesu là
người công chính bị kết án bất công.
Cách thức kẻ dữ mai phục
người công chính (Kn 2:12, 17-20) thật lạnh lùng và đầy mưu toan: “Hãy coi
điều nó nói có thật không, hãy xét nghiệm xem những gì sẽ xẩy đến cho nó và chờ
xem chung cuộc đời nó sẽ thế nào. Vì nếu nó thật là con Thiên Chúa, Chúa sẽ giúp
nó, giải thoát nó khỏi tay kẻ thù. Chúng ta hãy nhục mạ và làm cho nó khổ sở thử
xem nó có hiền lành và nhẫn nhục không. Chúng ta hãy kêu án tử hình cho nó chết
cách nhục nhã, vì theo lời nó nói thì người ta sẽ cứu nó!”(217-20:)
TẠI
SAO NGƯỜI CÔNG CHÍNH BỊ KẾT ÁN ?
Người công chính bị tấn
công vì đã dám phê phán cách sống của kẻ ác: “Nó trách chúng ta là phạm luật”(2:12).
Người công chính được bảo vệ vì lòng trung thành, không chết vì đã chia sẻ cộng
đoàn với Thiên Chúa. Đặc điểm của người công chính là dịu hiền và nhẫn nhục, dù
bị kẻ xấu đem ra thử nghiệm, truy kích và giết chết. Chúng quyết định thử người
công chính xem mức công chính đạt tới đâu (17-20). Cuối cùng, lời nói và việc
làm của người công chính đã chứng minh lời tố cáo của kẻ xấu là sai lầm
(2:12-16). Kẻ xấu đã giết chết người công chính bằng những mưu mô quỉ quyệt.
KHÔN
NGOAN KITO GIÁO
Câu hỏi về khôn ngoan mở
đầu thư thánh Giacobe (3:13) đã nói lên ý nghĩa cuộc bàn luận: “Ai là kẻ khôn
ngoan và hiểu biết, hay thế nào là đức khôn ngoan?” Thánh Giacobe đã đưa ra
những dấu hiệu của khôn ngoan (3:13-4:3), gồm khôn ngoan của Thiên Chúa và khôn
ngoan của thế gian, của kẻ dữ (3:15). Thánh Giacobe đã nêu rõ sự khác biệt giữa
khôn ngoan thật và giả bằng cách so sánh người khôn ngoan thật là “kẻ thù của
thế gian” và người khôn ngoan giả là “kẻ thù của Thiên Chúa”(4:4). Xem vậy đức
khôn ngoan Kito giáo Chúa ban làm cho “con người trở nên, trước là thanh khiết,
sau là hiếu hòa, khoan dung, mềm mỏng, đầy lòng từ bi và sinh nhiều hoa thơm
trái ngọt, không thiên vị không giả hình nhân đức.”(3:17)
Đức khôn ngoan thực của
Kito Giáo thì có tính hướng ngoại, hiến tặng cho tất cả mọi người, trong khi
khôn ngoan giả là tham lam, ghen tương, hận thù, cãi lộn, ích kỷ, có tính hướng
nội, coi mình là nhất. Vậy chúng ta nên bắt chước khôn ngoan thật, không theo
khôn ngoan giả là danh vọng tiền tài phù du của thế gian bằng những âm mưu bất
chính và thất đức.
NHỮNG
YẾU TỐ CỦA KHÔN NGOAN
Bài Tin Mừng Marco hôm
nay (Mc 9:30-37) tiên đoán về cuộc Khổ Nạn của chúa Giesu lần thứ hai. Chúa báo
tin này đã chẳng giúp các môn đệ hiểu biết hơn chút nào. Họ lại bàn tán xem ai
sẽ là người quan trọng nhất trong đám họ. Giống như bài Tin Mừng tuần trước, các
mộn đệ đã hiểu lầm về cuộc tử nạn của Chúa Giesu và giáo huấn của Người về tình
nghĩa và bổn phận của người môn đệ.
Giữa khung cảnh này Marco
đã nêu ra những yếu tố của khôn ngoan Kito giáo. Bài Tin Mừng đưa ra một loạt
những lời Chúa nói về tình môn đệ (9:30-37) qua ba hình ảnh:
Trước hết, sau khi thất
bại, các môn đệ rút ra bài học “phải bền chí”. Ngay trước đó các môn đệ đã
không thể chữa được một đứa trẻ bị quỉ ám (Mc 9:14-29) đã bị Chúa quở trách nặng
lời: “Ôi! Thế hệ cứng lòng, Ta còn phải ở lại với các ngươi bao lâu nữa đây?”
(9:19). Tuy nhiên sự yếu đuối đó đã không làm các ông mất nhuệ khí mà còn quyết
tâm chuẩn bị cho cuộc sống mai sau trên vương quốc Thiên Chúa.
Thứ đến, các môn đệ nhận
ra lời Chúa nói quá ghê sợ. Đây là lần thứ hai Chúa nói trước về số phận của
Người ở Jerusalem, nhưng các môn đệ cũng không hiểu mà không dám hỏi Chúa (9:32)
cho đến khi Chúa làm bộ hỏi các ông bàn bạc cái gì trên đường đi thì các ông
luống cuống nói là “không có gì cả”. Các môn đệ có thể đã không hiểu nhiều lời
Chúa nói và đã bàn bạc ngoài đề. Các ông rất xấu hổ vì bị hạ nhục. Nhưng Chúa
chưa tha cho các ông đâu….
Thứ ba là các môn đệ đã
học được bài học bổn phận của người đầy tớ. Khi Marco dùng tiếng “đầy tớ”, ông
dùng từ Hy Lạp có nghĩa là deacon / phó tế, thừa tác viên . Từ này lúc đầu được
dùng để chỉ người bồi bàn, hầu nước và rượu trong tiệc cưới ở Cana (Ga 2:5).
Mathiew dùng nó để chỉ đầy tớ của các vua chúa trong dụ ngôn tiệc cưới (Mt
22:13). Thánh Phaolo tự ví mình như là đầy tớ của Phúc Âm (Cl 1:23; Ep 3:7), đầy
tớ của Giáo Hội (Cl 1:25), đầy tớ của tân giao ước trong Chúa Thánh Thần (2Cr
6:4). Gioan dùng nó để nói về những ai có liên hệ với Chúa Giesu một cách tổng
quát, và gọi “các phó tế/thừa tác viên” là đầy tớ của chúa Giesu (Ga 12:26).
AI LÀ
NGƯỜI LỚN NHẤT ?
Quan niệm về tiếng Lớn
Nhất đã được Chúa Giesu tái định nghĩa cho các tông đồ hiểu. Quan niệm mới này
cũng để xác định thành công hay thất bại, thắng hay thua, hoàn thành hay không
hoàn thành bổn phận. Chúa Giesu lấy một đứa trẻ làm thí dụ. Đứa trẻ này không
phải là đứa ngây thơ, đáng tin cậy, hay đùa nghịch, nhưng là đứa trẻ chậm hiểu
đang ở dưới quyền coi sóc của người lớn. Chúa Giesu đưa ra một hệ thống liên hệ
mới: “Ai đón nhận đứa trẻ này nhân danh Ta tức là đón nhận Ta. Ai đón nhận Ta là
đón nhận Thiên Chúa, đấng đã sai Ta (Mc 9:37). Đây là tình hiệp thông giữa đứa
trẻ, chúa Giesu và Thiên Chúa.
Đứa trẻ là biểu tượng của
vô quyền lực và hoàn toàn phụ thuộc vào người khác. Marco dạy chúng ta phải chào
đón những kẻ yếu kém, nghèo khổ và mất hết tự do. Qua cử chỉ này, Chúa Giesu làm
nổi bật đặc tính của đứa trẻ. Chúa ôm đứa trẻ trong lòng cho thấy Chúa chẳng
mong gì nơi đứa trẻ, nhưng luôn luôn che chở ấp ủ nó.
Môn đệ phải trở thành
gương mẫu để cho mọi người noi theo. Thất bại của các môn đệ, không hiểu hoặc
làm sai lời Chúa vô tình hay cố ý đều là hình ảnh của họ nơi các thế hệ môn đệ
tương lai, di sản của những thế hệ đi trước đáng nguyền rủa. Những thế hệ tương
lai sống trong sa đọa, gương mù gương xấu là vì đã nhận những di sản xấu của
những thế hệ đi trước. Chế độ cs tàn ác bất chính và những “tôi tớ Chúa” đã hùa
theo nó, nịnh bợ để được an thân, có danh lợi, chắc chắn đã tạo ra những di sản
xấu.
KHÔN
NGOAN VÀ NHÂN ĐỨC
Một trong những bài học
phổ quát và sâu xa nhất để đạt đức khôn ngoan là bài học do Thánh Giáo Hoàng
Gioan Phaolo II đưa ra tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ở New York ngày
5-10-1995. Lời ngài nói giờ này vẫn còn văng vẳng trong tâm trí chúng ta:
“Phải vượt thắng mọi sợ
hãi về tương lai. Nhưng chúng ta sẽ không thể nào lướt thắng nó một cách trọn
vẹn trừ khi chúng ta cùng nhau làm. ‘Giải quyết’ nỗi sợ hãi đó không phải là lừa
đảo, dụ dỗ hay ép buộc, cũng không phải là áp đặt một xã hội ‘khuôn mẫu’ trên
toàn thế giới. Giải quyết nỗi sợ hãi đó -đang làm đen tối loài người ở cuối thế
kỷ 20 này- phải là cố gắng chung cùng nhau xây dựng văn minh tình thương, trên
nền tảng giá trị phổ quát của hòa bình, đoàn kết, công bằng và tự do. Và ‘linh
hồn’ của văn minh tình thương là văn hóa của tự do: tự do cá nhân và tự do quốc
gia, sống trong tình liên đới đoàn kết tự hiến và trách nhiệm.
“Đừng sợ tương lai. Chúng
ta đừng sợ con người. Không phải bất ngờ mà chúng ta hiện hữu. Mỗi người và tất
cả mọi người đều được tạo dựng nên theo ‘hình ảnh và giống như’ Đấng là nguồn
gốc của tất cả mọi sự đang có. Chúng ta có những khả năng về khôn ngoan và nhân
đức. Với tặng phẩm này và với sự trợ giúp của ân sủng Thiên Chúa, chúng ta có
thể xây dựng, ở thế kỷ tới và thiên niên kỷ sau, một nền văn minh tình thương
xứng đáng của loài người, một văn hóa đích thực của tự do. Chúng ta có thể và
phải làm được như vậy! Trong khi thực thi như vậy, chúng ta sẽ nhận ra rằng
những giọt nước mắt của thế kỷ này đã sửa soạn đất cho một mùa xuân mới của tình
nhân loại.”
Chúng ta hãy nguyện cầu
xin Thiên Chúa ban cho mùa gặt có nhiều hạt giống công chính, khôn ngoan và nhân
đức được gieo vào lòng con người. Không có những tặng phẩm đó, văn minh tình
thương và văn hóa tự do mà tất cả chúng ta mong đợi sẽ không thể có được.
Fleming Island, Florida
August 2018